HỒ CHÍ MINH - BIÊN NIÊN TIỂU SỬ 

TẬP 4 - Giai đoạn: 12/1946 - 12/1950

Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 4 ghi lại những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bốn năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ ngày 19-12-1946 đến hết năm 1950.

Đây là thời kỳ đặc biệt quan trọng trong lịch sử của dân tộc ta. Vượt qua muôn vàn khó khăn, gian lao, thử thách trong những ngày đầu dựng nước, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ đã đứng vững: chính quyền được củng cố, lực lượng vũ trang thêm lớn mạnh, uy tín quốc tế được nâng cao, biên giới được khai thông... tạo ra những điều kiện cơ bản cho những thắng lợi to lớn về sau.

Thành tựu đạt được trong thời gian này gắn liền với những hoạt động phong phú, đầy tài trí của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Người đã cùng Thường vụ Trung ương Đảng và Chính phủ xác định đường lối chiến lược cho cuộc kháng chiến cứu nước: trường kỳ, toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc; lãnh đạo và huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.

Chỉ đạo việc xây dựng và củng cố chính quyền, quân đội, tài chính, thương nghiệp, bưu điện, giao thông vận tải, văn hoá xã hội, giáo dục, y tế, thuế khoá... đặt cơ sở cho việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Nhà nước dân chủ mới.

Chủ động phá thế bao vây, cô lập Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc; mở ra những mối liên hệ với nước ngoài để một mặt giới thiệu cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với bạn bè quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các nước, mặt khác thu nhận những thông tin của đời sống chính trị thế giới. Đặc biệt, đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật sang Trung Quốc và Liên Xô, hội đàm với các nhà lãnh đạo của hai nước, dẫn tới sự kiện Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước xã hội chủ nghĩa ngay sau đó đã lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, mở ra một thời kỳ mới cho cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta.

Trong những lời kêu gọi, những bức thư gửi các nhà lãnh đạo các nước, các chính khách và nhân dân thế giới, những câu trả lời phỏng vấn của các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam là mong muốn sớm giải quyết cuộc chiến tranh Pháp - Việt trên tinh thần tôn trọng độc lập, tự do của Việt Nam, làm giảm đau khổ cho cả hai dân tộc, góp phần giữ gìn hoà bình, an ninh trong khu vực và trên toàn thế giới. Đồng thời cũng khẳng định quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết hy sinh chiến đấu đến cùng để giành bằng được độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Trong quan hệ với các nước, Người chủ trương: Việt Nam muốn làm bạn với mọi nước, không gây thù oán với một ai, sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện và chỉ ra những căn bệnh mới nảy sinh trong hoạt động của cán bộ chính quyền và đoàn thể như bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa địa phương, tệ quan liêu xa rời quần chúng, v.v., nên Người đã hết sức chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng, phương pháp và phong cách công tác, nêu cao khẩu hiệu "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư" cho cán bộ, chiến sĩ và toàn dân học tập, rèn luyện.

Người phát động phong trào Thi đua ái quốc để động viên và huy động sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn thể nhân dân Việt Nam vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc.

Người phấn đấu không mệt mỏi để củng cố khối đoàn kết toàn dân, chỉ đạo thành lập khối liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Việt - Miên - Lào...

Với trên 1.000 sự kiện, tập 4 Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử xuất bản lần thứ nhất (1994) đã góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách và một phần đời sống riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm đầu của cuộc kháng chiến.

Trong lần xuất bản thứ hai này, tập 4 Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử đã có sự sửa chữa và bổ sung lớn:

1. Những sự kiện cũ, trước đây do nguồn tài liệu hạn chế, viết còn sơ lược thì nay cố gắng viết rõ hơn, đầy đủ hơn về nội dung, cụ thể và chính xác hơn về thời gian. Những lời phát biểu của Người được chỉnh sửa lại căn cứ vào bộ sách Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai (1995).

2. Bổ sung thêm 150 sự kiện mới, bao gồm những bài nói, bài viết, những trả lời phỏng vấn, thư từ gửi cho các cá nhân, v.v. được sưu tầm và công bố trong thời gian kể từ sau lần xuất bản thứ nhất.

3. Thêm phần Chú thích cuối sách, nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn những sự kiện nêu trong tập sách. Khá nhiều nhân vật trực tiếp liên quan tới hoạt động của Người cũng được bổ sung thêm trong phần Bản chỉ dẫn tên người.

Cũng như các tập 1, 2, 3, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 4 được biên soạn theo những nguyên tắc và phương pháp đã nêu trong Lời giới thiệu ở tập 1. Nguồn tư liệu chính dùng biên soạn là những tài liệu khai thác từ các kho lưu trữ của Đảng và Nhà nước, các bảo tàng, các báo Sự thật, Cứu quốc, Nhân dân, v.v., các biên bản Hội đồng Chính phủ, các sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, thư từ, tài liệu, bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh và hồi ký của những người đã trực tiếp làm việc, tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những sự kiện có liên quan.

Một số sự kiện đã được khai thác từ những công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của các tác giả nước ngoài, hồi ký của một số chính khách có quan hệ với Người trước đây, sau khi đối chiếu xác minh cũng đã được lựa chọn đưa vào tập này.

Trong quá trình sửa chữa và bổ sung cho lần xuất bản thứ hai này, chúng tôi tiếp tục nhận được sự giúp đỡ nhiều mặt của Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, Cục Lưu trữ Nhà nước, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, của nhiều cán bộ lão thành, học giả, nhà nghiên cứu ở nhiều học viện và trường đại học. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn cuốn sách vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của bạn đọc gần xa.

 Hà Nội, tháng 2 năm 2006

MỤC LỤC:

* Năm 1946 - Cuối tháng 12

Tháng 12, ngày 19

Sáng sớm, sau khi nhận được tối hậu thư của Bộ Chỉ huy quân đội Pháp 1), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bức thư gửi J.Xanhtơny, Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Đông Dương. Nội dung bức thư như sau: “Những ngày vừa qua tình hình trở nên căng thẳng hơn. Thực là rất đáng tiếc. Trong khi chờ đợi quyết định của Pari, tôi mong rằng ông sẽ cùng ông Giám tìm một giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại” 2).

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chủ tọa Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông, nay thuộc Hà Tây).

Trong ngày, tại gác hai ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Dương (làng Vạn Phúc), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Lời kêu gọi có đoạn:

“Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

... Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng cương quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

Cả dân tộc nhất tề cầm vũ khí lao vào cuộc kháng chiến theo lệnh của Người.

18 giờ 40 phút cùng ngày, Người rời Vạn Phúc chuyển đến Xuân Dương (Thanh Oai, Hà Đông), bắt đầu cuộc hành trình lên Việt Bắc.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 480-481.

- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 160-161.

- Võ Nguyên Giáp: Những năm tháng không thể nào quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974, tr. 420-425.

- Philippe Devillers: Paris - Saigon - Hanoi, Gallimard/Julliard, Paris, 1988, p. 296.

- Nhật ký Vũ Kỳ. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 153.

Tháng 12, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 1/SL, thành lập tại mỗi khu quân sự, mỗi đơn vị hành chính từ cấp tỉnh trở xuống, một Uỷ ban bảo vệ có nhiệm vụ thi hành những mệnh lệnh và chỉ thị của cấp trên về bảo vệ đất nước.

Sắc lệnh quy định rõ thành phần, quyền hạn và phương thức hoạt động của Uỷ ban này.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi dân chúng Việt Nam, dân chúng Pháp, dân chúng các nước Đồng minh, tố cáo dã tâm của thực dân Pháp muốn cướp nước Việt Nam một lần nữa, khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu đến cùng để giành lại tự do, độc lập và bày tỏ thiện chí đối với nhân dân và binh lính Pháp.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, phông Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 482-484.

Tháng 12, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Hỏi và Trả lời, để giải đáp ba vấn đề: 1. Kháng chiến sẽ bao giờ thắng lợi? 2. Toàn dân kháng chiến là thế nào? 3. Chiến sĩ đánh trước mặt trận, đồng bào ở hậu phương nên làm việc gì?

Trả lời câu hỏi thứ nhất, Người chỉ rõ: "Giồng khoai 3 tháng mới có củ, giồng lúa 4 tháng mới được ăn. Giồng tự do độc lập ít nhất cũng phải 1 năm, hoặc 5, 7 tháng... Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng".

Người giải thích về toàn dân kháng chiến: "Toàn dân kháng chiến nghĩa là toàn cả dân, ai cũng đánh giặc. Bất kỳ đàn ông đàn bà, người già con trẻ, ai cũng tham gia kháng chiến", và kết luận:

"Dân ta phải giữ nước ta,

Dân là con nước, nước là mẹ chung".

Người tóm tắt nội dung đã trả lời trong câu hỏi thứ ba bằng bốn câu thơ:

"Tiền phương chiến sĩ hy sinh,

Đem xương máu mình, giữ nước non ta.

Hậu phương sản xuất tăng gia.

Cũng là kháng chiến, cũng là vẻ vang".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh điện trả lời Thủ tướng Pháp L. Bơlum về bức điện của ông ta mà Người mới nhận được chiều hôm trước (22-12). Trong điện văn, Chủ tịch đã nói rõ thêm về hành động tàn bạo ngang ngược của các nhà chức trách Pháp ở Hà Nội từ ngày 17-12 đến ngày 19-12, và hy vọng phía Pháp sẽ nhận được lệnh "phải rút quân đội về những vị trí trước ngày 17-12 và phải đình chỉ những cuộc hành binh mệnh danh là tảo thanh, để cho cuộc xung đột chấm dứt ngay".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 485-487.

Tháng 12, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Công giáo nhân ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh.

Người chỉ rõ hành động xâm lược của thực dân Pháp đã "làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Giêsu" và kêu gọi đồng bào "không chia lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông Tổ quốc, mà cũng để giữ gìn quyền tôn giáo tự do". Người chúc phúc toàn thể đồng bào Công giáo và "kính cẩn cầu Đức Thượng đế phù hộ dân tộc Việt Nam và giúp cho Việt Nam đi đến cuộc thắng lợi cuối cùng".

Cùng ngày, Người còn viết Thư gửi các kiều dân Pháp Gửi các tù binh Pháp.

Trong cả hai bức thư, Người đều bày tỏ sự thông cảm trước cảnh ngộ hiện nay của họ - những người Pháp mà Người vẫn coi là bạn - đang là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược do bọn thực dân phản động gây ra chỉ vì quyền lợi ích kỷ của chúng. Người mong một ngày gần đây, nhân dân hai nước Pháp và Việt Nam sẽ có thể cùng nhau hợp tác trong hoà bình và thân ái để mưu hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 488-490.

Tháng 12, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 2/SL, uỷ cho các Uỷ ban kháng chiến Khu quyền thiết quân luật trong địa phận, nhưng phải báo cáo với Bộ Quốc phòng và thông báo ngay cho các cơ quan hành chính và dân chúng. Trước khi bãi lệnh thiết quân luật, phải được Bộ trưởng Quốc phòng chấp thuận (trừ khi giao thông bị gián đoạn).

Tối, Người tới một địa điểm thuộc tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây) chủ trì phiên họp mở rộng của Hội đồng Chính phủ với sự tham gia của Ban Thường trực Quốc hội và Uỷ ban kiến thiết để bàn biện pháp đẩy mạnh công cuộc kháng chiến. Kết luận phiên họp, Người khẳng định lại quyết tâm kháng chiến đến cùng để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

-Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bác Hồ với Hà Tây, những di tích lịch sử. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 3-1992, tr. 21.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 4.

Tháng 12, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Một vài ý kiến về các Uỷ ban kiến thiết, động viên dân chúng, tăng gia sản xuất, Uỷ ban tản cư.

Sau khi phân tích ý nghĩa của sự phân công và nhấn mạnh sự cần thiết phải hợp tác trong hoạt động, trong việc phối hợp kế hoạch... giữa các cơ quan chuyên môn đó, Người nêu những ý kiến cụ thể hướng dẫn việc tổ chức, cách thức hoạt động và nội dung công việc của các uỷ ban trên trong việc động viên nhân dân về tinh thần và vật chất vào công cuộc trường kỳ kháng chiến.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng  Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 491-495.

Tháng 12, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi anh em Hoa kiều bày tỏ sự thông cảm với những nỗi khổ cực của họ dưới ách thống trị của thực dân Pháp trong hơn 80 năm qua, vạch trần thủ đoạn "bảo hộ Hoa kiều" của chúng, đồng thời biểu dương tình nghĩa của Hoa kiều đối với nhân dân Việt Nam và mong rằng: "Trong cơn hoạn nạn, Hoa - Việt anh em,  cảm tình càng nồng, đoàn kết càng chặt".

Người gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến, căn dặn: phải đối đãi tử tế, chăm sóc chu đáo những tù binh và thường dân Pháp để họ thấy rõ mục đích kháng chiến của nhân dân ta và chính sách nhân đạo của Chính phủ.

Trong thư viết cùng ngày gửi Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Hữu Nam, Người nhắc "cần có sự giúp đỡ để Hội nghị trí thức và quan lại cũ thành công", "cần thận trọng việc mua sắm vũ khí cho kháng chiến".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 3NV/SL về việc tạm hoãn các cuộc tuyển cử vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính và việc bổ sung người thay các uỷ viên hành chính vì lý do nào đó, không thể tiếp tục chức vụ cũ.

- Sắc lệnh số 4/SL, uỷ cho Uỷ ban bảo vệ cấp Khu quyền ân xá, ân giảm, phóng thích các tội phạm do các toà án thường, toà án quân sự, toà án binh (trừ toà án binh tại mặt trận) kết án và những thủ tục khi tội phạm muốn xin được hưởng các quyền nói trên.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 496-497.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 6.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc Bộ Nội vụ cần tổ chức mau các Uỷ ban tản cư và Uỷ ban động viên dân chúng tăng gia sản xuất.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam đề nghị nên mời cụ Nguyễn Văn Tố tham gia Uỷ ban tản cư hoặc Uỷ ban động viên dân chúng.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 31

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 5/SL, về việc thành lập Uỷ ban tản cư Trung ương và các Uỷ ban tản cư của các tỉnh, phủ, huyện, làng.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

 ----------------

Chú thích

1) Đây là tối hậu thư thứ ba Pháp gửi cho ta trong hai ngày. Pháp yêu cầu đình chỉ mọi hoạt động để chuẩn bị kháng chiến, tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, trao việc duy trì trật tự an ninh của thành phố cho Pháp.

2) Thư này Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho ông Hoàng Minh Giám để chuyển cho J.Xanhtơny ngay chiều hôm đó. Viên Cao uỷ khước từ  và nói phải đợi đến ngày hôm sau mới nhận.

* Năm 1947 - Từ tháng 01 đến tháng 4

Tháng 1, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đầu năm mới (1947).

Người thay mặt Chính phủ gửi tới toàn thể đồng bào và kiều bào ở nước ngoài, bộ đội, tự vệ và dân quân, thanh niên, phụ nữ và các cháu nhi đồng lời chúc mừng "một năm mới đoàn kết, một năm mới kiên quyết kháng chiến, một năm mới thắng lợi" và kêu gọi mọi người: "Năm mới chúng ta phải đem lực lượng mới, quyết tâm mới để giành lấy thắng lợi mới, để xây dựng một đời sống mới, một nước non mới".

Người cũng thay mặt cả nước gửi lời chào năm mới tới nhân dân Pháp.

Cùng ngày, Người viết Thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp nhân dịp đầu năm mớiThư gửi tướng Lơcléc (Leclerc).

Trong Thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp, Người nói rõ: "Mong quốc dân Pháp hiểu rằng chúng tôi không thù hằn gì dân tộc Pháp. Chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu, chống bọn thực dân phản động đang mưu mô xẻ cắt Tổ quốc chúng tôi, đưa chúng tôi vào vòng nô lệ và gieo rắc sự chia rẽ giữa hai dân tộc Pháp và Việt. Nhưng chúng tôi không chiến đấu chống nước Pháp mới và quốc dân Pháp, chúng tôi lại còn muốn hợp tác thân ái".

Trong Thư gửi Tướng Lơcléc, Người hy vọng với tư cách và cương vị của mình, "có lẽ ngài có thể tạo được hoà bình, một nền hoà bình hợp công lý và xứng đáng, thuận tiện cho hai dân tộc chúng ta, mặc dầu trong hoàn cảnh do kẻ khác gây ra, mà vẫn không dứt tình hữu nghị". Đồng thời khẳng định: "Chúng tôi đã nhất quyết ở trong khối Liên hiệp Pháp1, cộng tác thành thực với nước Pháp và tôn trọng quyền lợi kinh tế, văn hoá Pháp trong nước chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng nhất quyết chiến đấu đến cùng cho độc lập và thống nhất quốc gia".

Trong ngày, Người viết  thư cho ông Hoàng Hữu Nam, căn dặn:

"Về động viên dân chúng

1. Nên thêm câu này cho dân dễ hiểu:

Vì địch muốn đánh mau như LỬA, ta phải kéo dài như NƯỚC. Ta dùng nước chống với lửa thì ta chắc thắng.

2. Những người danh vọng trong nước phải đứng ra kêu gọi giới mình. Như cụ Bùi và các cụ khác khai hội với quan lại cũ, khuyến khích và giải thích rồi mỗi người về địa phương của họ. Tôn giáo, văn hoá, v.v. cũng vậy.

3. Cần nói rõ cho dân hiểu, hạng người nào thì nên giúp kháng chiến thế nào.

Chung: Tăng gia sản xuất, giữ bí mật, đào hầm trú ẩn, cất lúa, cất muối cho khỏi cháy, giúp việc phá hoại giao thông của địch, v.v..

Riêng: phụ nữ có thể tổ chức đội vá áo, đội giặt áo, đội cứu thương, v.v.. Nhi đồng có thể đưa tin, trinh thám, v.v..

4. Cách động viên: trong kế hoạch cũng cần nói đến khai hội, đọc lời thề, dán khẩu hiệu, v.v. như A 1) đã viết qua thư trước.

Về tản cư:

1. Những khu xung quanh chiến địa, phải chuẩn bị sẵn sàng, chia làm đông, tây, nam, bắc. Phía nào chừng dùng được người chạy nạn. Nếu không vậy thì ùa nhau chạy đến một chỗ rất nguy hiểm (như tàu bay ném bom hoặc người đông quá ứ lại, chạy không được). Phải có sẵn người để chỉ đường.

2. Làm 1 sổ theo A, B, C cho dễ tìm, dễ điều tra.

3. Trong lúc tản cư và trong vùng tản cư, phải có kế hoạch tuyên truyền để giữ vững tinh thần của dân, kế hoạch phòng gian để chúng không lẫn vào trong đám người tản cư đặng thám thính và tính nhiễu loạn trật tự, phao tin nhảm, v.v..

Thêm: Trừ những người rất cần ở lại, các uỷ ban và các nhân viên không cần lắm phải rời khỏi thành Hà Đông đi ngay".

- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t.1, tr. 13-18.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 1-6.

- Báo Nhân dân cuối tuần, số 52, ngày 22-12-1996.

Tháng 1, ngày 2

Nhân dịp Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Mutê (Moutet) sang Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của các nhà báo về ý nghĩa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Người nêu rõ: "Việt Nam không chiến tranh chống nước Pháp và dân Pháp vì ta muốn hai dân tộc Việt - Pháp cộng tác thật thà. Nhưng tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc. Bọn thực dân phản động dùng vũ lực phá hoại quyền thống nhất và độc lập của dân ta, cho nên dân ta phải kháng chiến để giữ gìn đất nước".

Về triển vọng của cuộc kháng chiến, Người khẳng định: "Hễ một dân tộc đã đứng lên kiên quyết đấu tranh cho Tổ quốc họ thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ. Dân Việt Nam muốn hoà bình, nhưng vì vận mệnh của Tổ quốc, của giống nòi, thì sẽ kháng chiến đến cùng, kháng chiến đến thắng lợi".

Buổi chiều, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc cần theo dõi việc người Pháp ở Vinh, việc gửi thư của Người cho anh em thương binh...

- Lời Hồ Chủ tịch, Nha Thông tin Việt Nam, 1948, t. 1, tr. 19-20.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 7-8.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Mutê - Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Uỷ viên Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương - sau khi biết tin ông tới Hà Nội. Bức thư có đoạn:

"Tôi lấy làm vui mừng được biết ngài tới Hà Nội. Xin có lời chào mừng ngài, vì ngài vừa là bạn cũ, vừa là đại diện cho nước Pháp mới, vừa là sứ giả của hoà bình.

Tôi rất mong và rất sung sướng được hội kiến với ngài lâu một chút để tỏ rõ ý muốn thành thực hoà bình và cộng tác của chúng tôi, và để chuyển đệ với ngài những đề nghị của chúng tôi về việc lập lại sự giao hảo giữa hai nước chúng ta".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 9.

Tháng 1, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nêu năm vấn đề cần chú ý:

- Tuyên truyền,

- Liên lạc và tổ chức,

- Việc sinh hoạt của các Bộ trong Chính phủ,

- Động viên lôi kéo công nhân viên chức,

- Phá đường, ngăn chặn sự tiến công của địch.

Cuối thư, Người còn vẽ một sơ đồ (gồm cả mặt cắt ngang và cắt dọc của con đường) để chỉ dẫn cụ thể cách thức đào đường nhưng vẫn đảm bảo sự đi lại của nhân dân mà xe địch không qua được.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Cù Huy Cận 2). Toàn văn bức thư như sau:

"Chú Cận,

Đã lâu không gặp chú, nhớ lắm.

Nay có việc cần. Chú phải về ngay. Về đến thì tìm gặp Nam gấp.

Công việc trong đó, giao lại cho chú Nhân.

Tôi gửi lời thăm tất cả đồng bào trong ấy.

Chờ chú.

Chào thân ái và quyết thắng

Ngày 5 tháng 1 năm 1947

Hồ Chí Minh".

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 10.

Tháng 1, ngày 6

Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, căn dặn những việc:

- Giúp Hoa kiều ở Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) tản cư.

- Bàn với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng về việc tuyên truyền, kêu gọi dân chúng.

- Vấn đề đăng ký của các viên chức nhà nước.

12 giờ, Người viết lá thư thứ hai gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc một số việc về công tác tổ chức.

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Chính phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, nêu rõ lập trường, nguyện vọng, thái độ của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến hiện nay, những biện pháp vãn hồi hoà bình.

Kết thúc bức thư, Người viết: "Chính phủ và nhân dân Pháp chỉ cần có một cử chỉ công nhận độc lập và thống nhất của nước Việt Nam là chấm dứt được những tai biến này; hoà bình và trật tự sẽ trở lại ngay tức khắc. Dân tộc Việt Nam đang chờ đợi cử chỉ đó.

Nước Pháp mới muôn năm!

Nước Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!

Tình thân thiện Pháp Việt muôn năm!".

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 11-12.

Tháng 1, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng báo Độc lập bài thơ sau đây:

Năm mới thế cho năm đã cũ.

Báo "Độc lập" của Đảng Dân chủ.

Kêu gọi toàn thể dân Việt Nam,

Đoàn kết và thắt chặt hàng ngũ,

Kiên quyết kháng chiến đến kỳ cùng,

Để giữ chủ quyền và lãnh thổ.

Chờ ngày độc lập đã thành công.

Tết ấy tha hồ bàn với cỗ.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư khen ngợi các chiến sĩ bị thương và sự tận tâm của các y sĩ, khán hộ, cứu thương.

Người biểu dương các chiến sĩ bị thương "thật xứng đáng với Tổ quốc, và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên những người con yêu quý như thế".

Người khen ngợi các thầy thuốc và khán hộ đã hết lòng chăm sóc chu đáo thương binh. "Thế là các bạn cũng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu quốc".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi nhân ngày Tết nguyên đán năm 1947, hô hào đồng bào "Phải hết sức tiết kiệm, để dành tiền bạc, cơm gạo cho cuộc kháng chiến lâu dài", "Làm những việc cần kíp, để phòng trước bọn địch tấn công", "Ra sức thi nhau tăng gia sản xuất", "Rủ nhau gửi đồ uý lạo cho chiến sĩ ở tiền phương".

Người còn viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam lưu ý việc kêu gọi trí thức, quan lại cũ tham gia công cuộc kháng chiến; việc chuẩn bị các tài liệu để tuyên truyền.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 13-16.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh hai lần viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam. Người có nhắc đến việc Bộ Nội vụ cho đăng báo bài Lời kêu gọi những người có văn hoá đăng ký phục vụ Tổ quốc.

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân Pháp.

Người đã kiên quyết bác bỏ những nhận xét sai lầm về tình hình Việt Nam của Bộ trưởng Mutê sau chuyến công cán sang Đông Dương, một lần nữa nêu rõ nguyện vọng của nhân dân Việt Nam là "bao giờ cũng muốn cộng tác với dân tộc Pháp như anh em, trong hoà bình và tin tưởng lẫn nhau", "bao giờ cũng muốn độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp", "bao giờ cũng muốn kiến thiết lại nước chúng tôi với sự giúp đỡ của tư bản và các nhà chuyên môn Pháp để mưu lợi ích chung cho cả hai dân tộc", "muốn hoà bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy"; đồng thời Người cũng khẳng định:

"Chúng tôi mong đợi ở Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hoà bình. Nếu không, chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước. Nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn sau cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và sẽ biến hẳn khỏi cõi Á châu".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 18-19.

Tháng 1, ngày 11

14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc việc tiếp đón các nhà báo Anh, Mỹ.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh điện trả lời 12 câu hỏi của một nhà báo Mỹ, nêu rõ lập trường của Việt Nam đối với Pháp và tỏ ý mong muốn xây dựng quan hệ thân thiện với nhân dân Mỹ.

Phần cuối bức điện, Người nói rõ:

"Các phóng viên Mỹ có quốc tịch Mỹ sẽ được đón tiếp khi họ đến gặp các nhà chức trách Việt Nam... Việt Nam muốn giữ mối liên hệ với nước Mỹ".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 20 - 21.

Tháng 1, ngày 13

Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nói về âm mưu của thực dân Pháp chiếm Hà Nội, về cách đối phó và những biện pháp quân sự của ta.

Tối, Người rời Xuân Dương, qua phà Ba Thá sang đất Chương Mỹ.

Khoảng nửa đêm, Người tới xóm Lai Cài, thôn Phú Đa, xã Cần Kiệm, Thạch Thất, Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây).

Trong ngày, Người viết Thư gửi các lãnh tụ và nhân dân các nước.

Sau khi vạch trần việc làm bất nhân bội ước của thực dân Pháp, Người phân tích ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Việt Nam do Pháp gây ra đối với "đại gia đình châu Á", với hoà bình thế giới, với số phận của khối Liên hiệp Pháp và uy tín của nước Pháp.

Cuối thư, Người viết: "Vì Tổ quốc, vì tự do, nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng. Vì nhân đạo, chính nghĩa, vì hoà bình chung và lợi ích chung, nhân dân Việt Nam mong các vị giúp đỡ mọi phương diện".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bác Hồ với Hà Tây, những di tích lịch sử. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 3-1992, tr. 22-23.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 22-23.

- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994,
tr. 153.

Tháng 1, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bức thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc gặp lãnh sự Trung Hoa về việc tiếp tế cho Hoa kiều; việc tranh thủ dịp Tết tiếp tế cho các đồng chí trong vùng địch tạm chiếm.

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 15

Nhân dịp ngày độc lập của Miến Điện 3), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam và nhân danh cá nhân gửi thư chúc mừng tới nhân dân Miến Điện.

Trong thư, Người cũng cảm ơn các vị lãnh tụ châu Á đã tỏ cảm tình với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu giải phóng đất nước, nêu rõ mối quan hệ mật thiết giữa vận mệnh các dân tộc châu Á với vận mệnh dân tộc Việt Nam và mong được tất cả các nước giúp đỡ.

Cùng ngày, hai lần Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam hỏi về việc chuẩn bị cho cuộc họp Hội đồng Chính phủ, việc các Bộ thảo sắc lệnh và lưu ý trong các văn bản nên viết ngắn gọn, dễ hiểu, "không dùng tiếng Tây".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 24.

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo của Bộ Quốc phòng về tình hình các mặt trận ba miền Bắc, Trung, Nam và báo cáo của Bộ Nội vụ về tinh thần nhân dân; thảo luận các vấn đề tản cư, di cư, vấn đề giáo dục trong thời chiến, vấn đề chăm sóc thương binh.

Tối, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam hỏi việc tản cư của nhân dân Thủ đô và nhắc việc phải cử người đi động viên nhân dân, phân công người làm công tác tuyên truyền.

Cùng ngày, Người viết Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến. Sau khi giải thích "Vì sao ta phải kháng chiến" và ý nghĩa của việc phá hoại đối với cuộc kháng chiến, Người hô hào "mọi người đều ra sức giúp phá. Phá cho rộng, phá cho sâu, phá sao cho bọn Pháp không lợi dụng được. Một nhát cuốc của đồng bào, cũng như một viên đạn của chiến sĩ bắn vào quân địch vậy".

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 25-26.

Tháng 1, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới ông Vanhxăng Ôriôn (Vincent Auriol) nhân dịp ông được bầu làm Tổng thống nước Cộng hoà Pháp.

Bức điện có đoạn:

"Nhân dịp này, tôi xin nói để ngài rõ là dân tộc Việt Nam chỉ mong được độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp. Tôi rất đau lòng trông thấy những người đáng lẽ là bạn bè anh em với nhau, mà nay phải tàn sát lẫn nhau... Tôi xin đề nghị cùng ngài lập lại ngay nền hoà bình để tránh cho hai nước chúng ta khỏi bị hao người thiệt của, và để gây lại sự cộng tác và tình thân thiện giữa hai dân tộc chúng ta".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 27.

Tháng 1, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi sư cụ chùa Ngũ Xã (quận Ba Đình, Hà Nội) khuyên sư cụ nên tản cư đi kháng chiến.

Chiều, Người cùng ông Võ Nguyên Giáp tới địa điểm họp Hội đồng Chính phủ ở Hà Đông (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Cuộc họp bị hoãn vì không đủ người. 23 giờ, Người mới ra về.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 16-17.

Tháng 1, ngày 21 (30 Tết)

Trưa, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và thiếp Chúc mừng năm mới tới ông Hoàng Hữu Nam.

Tối, Người đi họp Hội đồng Chính phủ ở phủ Quốc Oai. Trời mưa, đường  trơn, ôtô vừa chạy được một quãng thì sa một bánh xuống ruộng. Anh em cùng đi phải vào xóm nhờ người khênh xe.

21 giờ xe mới tới được địa điểm họp, Người vào dự ngay cuộc họp tất niên của Hội đồng Chính phủ. Phát biểu với Hội đồng, sau lời chúc mừng năm mới, Người nhấn mạnh ba công việc chính cần xúc tiến gấp là tổ chức tốt việc tản cư di cư, công tác động viên nhân dân và đẩy mạnh tăng gia sản xuất.

22 giờ 30, Người lên xe đến Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đặt tại Chùa Trầm ở Chương Mỹ, Hà Đông (nay thuộc huyện Hoài Đức, Hà Tây). Mưa nặng hạt hơn, đường lầy lội, nhiều lúc xe không đi nổi phải xuống đẩy. Gần đến 24 giờ, xe mới tới nơi. Người vào ngay buồng máy đọc bài thơ Chúc Tết gửi đồng bào cả nước:

Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió,

Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông.

Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,

Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng.

Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!

Sức ta đã mạnh, người ta đã đông.

Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi!

Thống nhất độc lập, nhất định thành công!

Đọc xong, Người thân mật nói chuyện với anh chị em cán bộ, nhân viên Đài phát thanh và cảm ơn sư cụ, chúc nhà chùa sang năm mới luôn cầu Phật cho kháng chiến chóng thành công.

Quá giao thừa, Người mới ra xe trở về.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 7/SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc Bưu điện Việt Nam.

- Nhật ký Vũ Kỳ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 17.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 153.

Tháng 1, ngày 22 (mồng Một Tết Đinh Hợi)

Chủ tịch Hồ Chí Minh dậy sớm và làm việc như thường lệ.

Người phân công từng người trong cơ quan đi chúc Tết các nhà lân cận. Người trịnh trọng viết mấy chữ Hán "Cung hỷ tân xuân" 4) trên tờ giấy điều, kèm theo một quả cam, một quả quít gửi sang chúc Tết và mừng tuổi gia đình cụ chủ nhà.

21 giờ, Người tiếp các ông Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh đến chúc Tết. Sau đó, Người cùng các vị họp ngay bên bếp lửa cho đến 1 giờ sáng hôm sau.

Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 8/SL, cử người vào Uỷ ban tản cư và di cư do ông Bùi Bằng Đoàn làm Chủ tịch, ông Nguyễn Văn Tố làm Phó Chủ tịch, ông Phan Anh làm Thư ký cùng tám uỷ viên đại diện cho các Bộ.

- Nhật ký Vũ  Kỳ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Giám mục Lê Hữu Từ tỏ ý mong muốn Giám mục lấy tư cách là cố vấn Chính phủ mà giải thích, kêu gọi đồng bào Công giáo hăng hái kháng chiến cứu quốc.

Cuối thư, Người viết: "Vì công việc còn bận, tôi chưa có thể gặp cụ để trực tiếp cảm ơn cụ, tôi xin phái người thân tín là ông Huỳnh 5)thay mặt tôi đến hỏi thăm và chúc cụ mạnh khoẻ.

Nhờ cụ cầu Đức Chúa ban phúc cho Tổ quốc và xin cụ nhận lời chào thân ái của tôi".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 28.

Tháng 1, ngày 24

Nhân dịp Tết Đinh Hợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ.

Người biểu dương tinh thần hy sinh chiến đấu trong hơn một năm qua của đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ vì thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Sau khi vạch trần thái độ lật lọng của bọn thực dân phản động Pháp và khẳng định lời thề "Thà chết chứ không làm nô lệ" của toàn dân Việt Nam, Người giải thích về một số luận điệu phản tuyên truyền của thực dân Pháp hòng chia rẽ đồng bào ta và nêu ba điểm trong chương trình nội chính của Chính phủ để đồng bào hiểu rõ.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 29-31.

Tháng 1, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Chính phủ mới của Pháp đề nghị chấm dứt chiến tranh.

Sau khi nêu rõ nguyên nhân đã dẫn tới cuộc chiến hiện nay, và trịnh trọng nhắc lại lập trường trước sau như một của nước Việt Nam là Độc lập và Thống nhất quốc gia trong khối Liên hiệp Pháp, cộng tác thân thiện với nước Pháp trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng những thoả hiệp đã ký kết, Người viết:

"Chúng tôi mong Chính phủ Pháp đình chỉ ngay cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn này và tin rằng dù có nhiều sự khó khăn vẫn có thể giải quyết cơn khủng hoảng một cách hoà bình và hợp đạo công bằng".

13 giờ, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc gửi thư ngay cho lãnh sự Anh Tơrêdo Uynxơn (Tresor Wilson) và lưu ý công việc chuẩn bị cho cuộc họp Hội đồng Chính phủ kỳ tới.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 32-33.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 26

8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc việc cho phát Lời kêu gọi gửi Chính phủ Pháp.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô 6) thăm hỏi tình hình ăn Tết, khen ngợi tinh thần gan dạ chiến đấu của các chiến sĩ và dặn dò những điều cần thiết.

Bức thư có đoạn:

"Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh 7). Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau".

10 giờ, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam góp ý kiến về nhân sự, tổ chức trong Hội đồng Chính phủ.

Cùng ngày, Người còn gửi một bức điện tới ông Aung San - Phó Chủ tịch Chính phủ Miến Điện và một bức điện tới các ông Nêru - Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời Ấn Độ, Sara Săngđơra Bôdơ - Bộ trưởng Bộ Công chính Ấn Độ, Cripalani - Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ và Ginnát - lãnh tụ Đảng Hồi giáo Ấn Độ.

Cả hai bức điện đều bày tỏ lòng biết ơn chân thành của Người về những việc các ông đã làm và sẽ làm để giúp cho cuộc đấu tranh giành tự do của nhân dân Việt Nam.

- Bút tích bức thư gửi ông Hoàng Hữu Nam. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 35-37.

Tháng 1, ngày 28

10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc việc cho đăng báo Thư gửi cụ Từ 8), Lời kêu gọi Chính phủ Pháp và việc họp Hội đồng Chính phủ.

Cùng ngày, Người viết thư gửi ông Cù Huy Cận. Toàn văn bức thư như sau:

"Nhờ chú Lưu 9) chuyển chú Cận 10),

Thứ trưởng Canh nông.

Về việc tản cư đến các đồn điền, chú nên làm một kế hoạch thiết thực thi hành được ngay. Như tôi nói hôm Tết.

Cần phải chú ý:

1. Cách phân phối người (ai đem áo chăn nấy).

2. Giúp đỡ lúc đi đường (trạm nghỉ, hành lý).

3. Nơi nào bao nhiêu người.

4. Đến nơi thì sao có chỗ ăn, chỗ ở và làm việc ngay.

Chú làm sẵn kế hoạch, đến Hội đồng Chính phủ ta bàn. Việc gì làm trước được, chú cứ làm.

Đã có người đi các tỉnh khai hội với U.B.H.C 11) và các chủ đồn điền chưa?

Chào thân ái và quyết thắng

Ngày 28 tháng 1 năm 1947

HỒ"

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 38.

Tháng 1, ngày 29

Nhân Ngày độc lập của Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới ông Nêru - Phó Chủ tịch Chính phủ lâm thời Ấn Độ, "xin chung sự hân hoan với dân tộc Ấn Độ, và rất tin cậy vào sự thắng lợi của các dân tộc Á châu trong cuộc tranh đấu cho tự do và tiến bộ".

Trong ngày, Chủ tịch ký Sắc lệnh số 9/SL, tạm thời đình chỉ thi hành mục B Sắc lệnh số 13/SL ngày 24-1-1946 và Sắc lệnh số 42 ngày 3-4-1946 về việc bắt, giam và truy tố nhân viên các cấp trong Chính phủ cùng các cơ quan hành chính và tư pháp; ấn định lại trình tự thủ tục truy tố đối với các đối tượng trên.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 39.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 10/SL, bổ nhiệm ông Nguyễn Sơn làm Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 11/SL, về việc ấn định lại thời hạn giam cứu cho tiểu hình và đại hình ghi trong Sắc lệnh số 40 ngày 29-3-1946.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi các chiến sĩ vệ quốc đoàn, tự vệ và dân quân toàn quốc.

Người nhiệt liệt ca ngợi nhiệm vụ vẻ vang nhưng đầy gian khổ của các chiến sĩ, biểu dương đức hy sinh, lòng dũng cảm và niềm tin quyết thắng của họ đã được thể hiện ngay từ những ngày đầu kháng chiến và kêu gọi toàn thể các chiến sĩ anh dũng tiến lên.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 42-43.

Tháng 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chia buồn tới bác sĩ Vũ Đình Tụng, Giám đốc Y tế Bắc Bộ, khi nhận được tin con trai bác sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu.

Bức thư có đoạn:

"Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột... Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 40.

Tháng 1

Biết tin Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Mutê đã rời Hà Nội về Pháp mà không gặp Người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra tuyên bố về việc này.

Tuyên bố có đoạn:

"Thật là đáng tiếc, ông Mutê và tôi có thể nói với nhau nhiều câu chuyện ích lợi. Tôi có thể nhân danh Chính phủ giao cho ông Mutê những tài liệu về cuộc xung đột hiện tại và đề nghị cùng ông những phương sách có thể làm chấm dứt, nếu nước Pháp muốn, cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn mà cả hai dân tộc đều không muốn, và có thể nối lại tình thân ái giữa hai nước".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 41.

Tháng 2, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ, nói rõ chính sách tự do tín ngưỡng của Chính phủ đã được ghi trong Hiến pháp. Người tin chắc, những xích mích nhỏ giữa một số đồng bào "không thể động chạm đến sự đại đoàn kết của chúng ta", và mong muốn Giám mục "sẽ hết sức giúp, đặng triệt để hoàn thành đại đoàn kết, để toàn dân không phân lương giáo, chỉ một tâm lo chống ngoại xâm".

Bức thư có đoạn:

"Chắc cụ không bao giờ tin rằng Việt Minh chống đạo, vì cụ thừa biết Việt Nam độc lập đồng minh là cốt đoàn kết tất cả đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập, chứ không phải để chia rẽ, phản đối tôn giáo.

Mà tôi cũng không bao giờ nghĩ rằng đồng bào Công giáo chống Việt Minh, vì hơn ai hết, đồng bào Công giáo càng mong cho Tổ quốc độc lập, cho tôn giáo được hoàn toàn tự do; và tôi chắc ai cũng tuân theo khẩu hiệu: Phụng sự Thượng đế và Tổ quốc".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 44.

Tháng 2, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo về quốc phòng, ngoại giao và thảo luận một số vấn đề về tài chính, kinh tế, tăng gia sản xuất.

18 giờ 30, Người rời xã Cần Kiệm chuyển đến khu Chùa Một Mái xã Sài Sơn, phủ Quốc Oai, Sơn Tây (nay thuộc Hà Tây).

Trước khi đi, Người mời cụ chủ nhà sang để cảm ơn và căn dặn cụ cùng các con cháu tích cực ủng hộ kháng chiến và giữ gìn bí mật.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 11/SLb, sáp nhập các Sở, Ty Địa chính trong toàn quốc vào Bộ Canh nông.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hà Tây những lần đón Bác. Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3-1992, tr. 47.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Phùng Thế Tài: Bác Hồ - Những kỷ niệm không quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.154.

Tháng 2, ngày 3

Tại khu Chùa Một Mái, trong gian buồng đầu hồi phía trái của Nhà Tổ vốn là chỗ ở của người coi chùa, vẻn vẹn chỉ có một tấm phản, một bàn nhỏ với chiếc máy chữ và cây đèn dầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 12/SL, ấn định chế độ kiểm duyệt, in, phát hành báo chí và ấn loát phẩm.

- Sắc lệnh số 13/SL, tạm cấm xuất nhập cảng hàng hoá cho đến khi có lệnh mới.

- Sắc lệnh số 14/SL, thành lập Nha tín dụng sản xuất nhằm mục đích giúp đỡ và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, công nghệ và kỹ nghệ.

- Hà Tây những lần đón Bác. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 3-1992, tr. 47.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 7

10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam. Bức thư có ba nội dung:

1. Gợi ý về cách đối phó với yêu sách của lãnh sự Trung Hoa muốn cử đại biểu đi "an ủi" các Hoa kiều tản cư.

2. Đề nghị viết thư hỏi Chủ tịch Uỷ ban hành chính các tỉnh, yêu cầu họ trong 10 ngày phải trả lời rõ ràng bí mật về một số câu hỏi Người nêu trong thư 12). Theo Người, "Những vấn đề trên, rất quan hệ cho việc tản cư và tăng gia sản xuất. Cũng quan hệ đến chính trị và quân sự".

3. Hỏi về tình hình chuẩn bị chuyến đi Nho Quan (Ninh Bình) của Người.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL, bổ nhiệm ông Đặng Việt Châu, nguyên Chánh văn phòng Bộ Nội vụ, làm đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Thanh Hoá và ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên Bí thư Chủ tịch Chính phủ làm đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Ninh Bình.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn nhân dân và ngoại kiều sau dịp Tết.

Thay mặt chiến sĩ, Người cảm ơn toàn thể đồng bào trong dịp Tết đã "tự mình tiết kiệm bớt ăn Tết mà uý lạo các chiến sĩ rất hậu... Lòng tốt của đồng bào tỏ rằng, chúng ta quân dân nhất trí, nên dù gian khổ mấy, trường kỳ kháng chiến cũng nhất định thắng lợi".

Thay mặt Chính phủ, bộ đội và nhân dân Việt Nam, Người trân trọng cảm ơn Hoa kiều và Ấn kiều "Trong lúc gian nan khổ cực này mà bà con Hoa kiều và Ấn kiều rất hăng hái ủng hộ cuộc kháng chiến cứu quốc của dân Việt Nam... Đủ thấy cảm tình của các dân tộc Á Đông ta càng ngày càng mật thiết".

Người còn gửi lời cảm ơn tới thanh niên, nhi đồng, các đoàn thể và cá nhân đã gửi thư chúc Tết. "Tiếc vì bận việc quá, không thể trả lời khắp. Vậy xin đồng bào nguyên lượng và nhận lời cảm ơn chung này".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một số câu hỏi của Đôn Camben (Doon Campbell), phóng viên Hãng Reuter (Anh).

Về câu hỏi Với điều kiện nào, Chính phủ Việt Nam ngừng chiến tranh?, Người khẳng định: "Khi những mục tiêu thống nhất và độc lập của nhân dân Việt Nam đạt được sẽ ngừng chiến và hoà giải ngay".

Về vấn đề tù binh, Người tuyên bố: "Họ được đối xử tốt hơn nhiều so với người Việt Nam".

Người còn giải thích việc các bộ trưởng không đảng phái tham gia Chính phủ, nói rõ những mục tiêu chính trị - xã hội của nhân dân Việt Nam, nhận xét việc báo chí nước ngoài thường đưa tin thất thiệt.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 45-46.

- Báo Vietnam News Service (Bangkok), ngày 9-2-1947.

- Tạp chí Lịch sử quân sự, tháng 3-1994.

Tháng 2, ngày 10

10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ Hội nghị điền chủ toàn tỉnh Ninh Bình họp tại phủ Nho Quan để bàn việc tăng gia sản xuất, giúp đỡ đồng bào tản cư, di cư, vấn đề ủng hộ Chính phủ kháng chiến.

Phát biểu với Hội nghị, Người nói đại ý: kháng chiến và kiến quốc mới nghe thì tưởng như mâu thuẫn. Thực ra không phải, kháng chiến là để kiến quốc, là để xây dựng một nước Việt Nam tự do, độc lập. Nhưng muốn kháng chiến thắng lợi thì phải trường kỳ kháng chiến, muốn trường kỳ kháng chiến thì phải tăng gia sản xuất và giúp đỡ đồng bào tản cư. Lúc này, "nước nhà trên hết, dân tộc trên hết, kháng chiến thắng lợi hơn hết".

- Bản chụp Biên bản Hội nghị điền chủ ở Nho Quan, Ninh Bình ngày 10-2-1947, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời Chính phủ Cao Miên giải phóng 13), nhiệt liệt hoan nghênh việc thành lập một Uỷ ban giải phóng Việt - Miên - Lào, nhằm mục đích theo đuổi đến cùng cuộc chiến đấu chung chống đế quốc và thực dân Pháp.

Bức thư có đoạn:

"Thay mặt cho toàn dân Việt Nam, tôi xin gửi Uỷ ban giải phóng lời chào mừng thân ái. Tôi tin chắc rằng các dân tộc ta, đã sẵn có một tinh thần tranh đấu cao, lại gắng đi tới một sự cộng tác chặt chẽ, thì thắng lợi thế nào cũng về ta, và chúng ta nhất định sẽ giành được
độc lập".

Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 16/SL, bổ nhiệm ông Văn Tiến Dũng làm Chính trị Cục trưởng Bộ Quốc phòng và ông Khuất Duy Tiến làm Phó Chủ tịch Uỷ ban hành chính Hà Nội kiêm Chính trị phó Cục trưởng, Trưởng phòng dân quân trong Chính trị cục Bộ Quốc phòng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 47.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 14

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo điện mật gửi Thanh Hoá về chủ trương "vào Thanh kinh lý".

Toàn văn bức điện như sau:

"10 giờ sáng ngày 14-2-42. Thanh Hoá  

Điện cho Châu 14)

Một.

Sẽ có tối cao đặc phái Chính phủ vào Thanh kinh lý.

Ngày vào sẽ định sau.

Hai.

Châu chuẩn bị báo cáo các việc.

Ba.

Mời các uỷ ban tản cư, tăng sản, các điền chủ, đại thương gia, nhà giàu, những người danh vọng, các lãnh tụ dân tộc thiểu số, các cán bộ hành chính và mặt trận các huyện, đại biểu quốc dân liên hiệp, đại biểu Công giáo.

Bốn.

Chuẩn bị chỗ khai hội xa thành phố và giữ bí mật.

Năm.

Phái đoàn đi đêm, chuẩn bị đón ở đâu?

Về việc này các chú có ý kiến gì đề nghị?".

Chiều, Người chỉ thị cho Bộ Tổng chỉ huy rút các lực lượng chiến đấu ở trung tâm Hà Nội ra khỏi thành phố để bảo toàn chủ lực, kháng chiến lâu dài.

- Bút tích bức điện. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 120.

Tháng 2, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện (viết bằng tiếng Anh) cho Đại uý Mỹ Sáclơ Phen (Charles Fenn) trả lời về bức công điện ngày 7-2-1947 của ông ta.

Bức điện có đoạn:

"Chúng tôi vô cùng cảm kích vì thiện chí của ngài muốn giúp Việt Nam. Nếu như ngài tới đây với tư cách là một nhà báo Mỹ của một tờ báo lớn thì ngài còn có thể làm được rất nhiều việc".

- Bút tích bức điện. Bản chụp lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Cục Lưu trữ Nhà nước.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 48.

Tháng 2, ngày 16

Tại Chương Mỹ (Hà Tây), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo của Bộ  Kinh tế, Bộ Ngoại giao và bàn về một số vấn đề khác. Hội nghị đến 12 giờ đêm, tạm nghỉ ăn cháo gà, sau đó tiếp tục đến 4 giờ 30 phút sáng mới giải tán.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 17/SL, thành lập Nha khẩn hoang, di dân đặt trong Bộ Canh nông.

- Sắc lệnh số 18/SL, về việc bổ nhiệm Giám đốc và các Phó Giám đốc Nha khẩn hoang, di dân.

- Sắc lệnh số 19/SL, về tổ chức và chức năng của các Toà án binh trên toàn cõi Việt Nam (trừ các Toà án binh mặt trận).

- Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng thương tật, tiền tuất cho thân nhân tử sĩ.

- Sắc lệnh số 21/SL, về việc bổ nhiệm Tổng Giám đốc Nha tín dụng sản xuất.

- Sắc lệnh số 22/SL, trích 30 triệu đồng ở ngân sách toàn quốc "làm số tiền quyên trợ (lần thứ nhất) cấp cho Nha tín dụng sản xuất".

- Sắc lệnh số 23/SL, thành lập Hội đồng sản xuất kỹ nghệ đặt trong Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 24/SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Kinh tế.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 37.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với các ông Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Hiến, Hoàng Hữu Nam để bàn và giải quyết một số vấn đề về quốc phòng, nội vụ, tài chính và thông báo về chuyến đi Thanh Hoá sắp tới của Người.

Làm việc xong, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời mọi người ở lại cùng ăn cơm, vừa ăn vừa bàn việc nước.

Cùng ngày, Người viết thư gửi đồng bào tản cư, căn dặn "tản cư cũng là kháng chiến", "tản cư cũng phải tăng gia sản xuất", "các đồng bào mỗi người phải làm một việc, không nên một ai ăn rồi ngồi không", "mỗi người phải tự cho mình là một người chiến sĩ, mỗi người phải làm tròn nhiệm vụ của mình".

Cuối thư, Người viết:

"Tôi và Chính phủ không giờ phút nào không lo lắng đến các đồng bào. Bây giờ đang cực khổ, thì chúng ta vui chịu với nhau. Đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, chúng ta sẽ cùng nhau vui sướng. Con cháu Lạc Hồng, bao giờ cũng quật cường, không bao giờ sợ khổ".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 38.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 49-50.

Tháng 2, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Chính phủ và nhân dân Pháp, một lần nữa kêu gọi hãy đình chỉ ngay "cuộc chiến tranh trái Hiến pháp, tai hại và không vinh dự này".

Người trịnh trọng nhắc lại lập trường của phía Việt Nam là: "Chúng tôi muốn độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp; chúng tôi muốn hoà bình, một nền hoà bình hợp công lý làm vinh dự cho cả nước Pháp và nước Việt Nam".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 51-52.

Tháng 2, ngày 19

Từ núi Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây), Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường vào Thanh Hoá. Cùng đi có Nguyễn Đăng Cao 15) phụ trách bảo vệ. Chiếc xe Jeep cũ kỹ do Phạm Văn Ngọc lái đưa Người đi theo tuyến Sơn Tây - Hoà Bình.

Buổi chiều, xe đến đồn điền Chi Nê 16) (Hoà Bình). Người dừng chân và nghỉ qua đêm ở đây.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Vũ Đình Huỳnh 17):

"Chú Huỳnh cùng Chủ tịch UBHC Ninh Bình,

1- Trả đồn điền của ông Phạm Lê Bổng lại cho ông ấy.

2- Người quản lý hiện giờ, phải trả lại sản vật hoa màu đầy đủ theo lệ thường. Nếu thiếu hoặc hư hỏng vật gì, thì theo phép luật mà xử trí. Nếu người quản lý mượn tên người nào hoặc đoàn thể nào mà làm quấy, thì cứ theo phép luật mà trị.

3- Hôm trước, ông Bổng có hứa với tôi: Đồn điền đó có thể thu nạp 500 đồng bào tản cư. Hỏi lại ông ấy rõ ràng. Thật có thể hay không. Nếu quả có thể, thì bao giờ người tản cư đến được.

4- Làm xong việc rồi, báo cáo cho tôi biết.

5- Công tác Ban Cứu tế (các điền chủ giúp đồng bào tản cư) tiến bộ thế nào?

Chào thân ái và quyết thắng

Ngày 19 tháng 2 năm 1947

HỒ CHÍ MINH".

Người còn tái bút: "Gửi lời thăm cụ Từ, cụ Trực, cụ Trung và tất cả đồng bào Công giáo. Chú Nam mong gặp cụ Ngô Tử Hạ".

- Hồi ký của Thiếu tướng Hoàng Hữu Kháng và hồi ký của Phạm Văn Ngọc. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 53.

Tháng 2, ngày 20

Khoảng 2 - 3 giờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Chi Nê đi tiếp vào Thanh Hoá. Đến Thanh Hoá khoảng 7 - 8 giờ.

Sau khi làm việc với lãnh đạo tỉnh, Người gặp gỡ cán bộ trong tỉnh, đến dự cuộc mít tinh của đại biểu các tầng lớp nhân dân.

Nói chuyện với các cán bộ, Chủ tịch đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng của người cán bộ và nêu cụ thể những đức tính cần thiết của người cán bộ trong việc đối xử với bản thân, với đồng chí, với công việc, với nhân dân và với đoàn thể.

Gặp gỡ đại biểu các tầng lớp nhân dân, Người góp những ý kiến cụ thể về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá để xây dựng Thanh Hoá trở thành một tỉnh kiểu mẫu.

Khoảng 4 - 5 giờ chiều, Người rời Thanh Hoá, về thẳng đồn điền Chi Nê và nghỉ qua đêm tại đây.

- Hồi ký của Thiếu tướng Hoàng Hữu Kháng và hồi ký của Phạm Văn Ngọc. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Thanh Hoá: Thanh Hoá khắc sâu lời Bác, 1975, tr. 24-33.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 54-63.

Tháng 2, ngày 21

Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm cơ sở in bạc và kho bạc đầu tiên của nước ta đặt tại đồn điền
Chi Nê, sau đó Người lên đường về núi Thầy (Sài Sơn, Quốc Oai).

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 25/SL về việc cải tổ Uỷ ban hành chính Thanh Hoá và viết Thư gửi đồng bào thiểu số Thanh Hoá 18). Toàn văn bức thư như sau:

"Cùng đồng bào yêu quý,

Tôi đến thăm Thanh Hoá, tôi định lên thăm đồng bào, nhưng có việc gấp phải trở về ngay, chưa lên được. Tôi lấy làm tiếc. Lần sau tôi sẽ lên thăm đồng bào.

Lúc này toàn thể quốc dân đang ra sức chống giặc cứu nước. Tôi chắc đồng bào Thượng du đều ra sức đoàn kết chuẩn bị tham gia giết giặc cứu nước để giữ vững quyền thống nhất độc lập của Tổ quốc. Việc dìu dắt đồng bào Thượng du, tôi trông cậy vào lòng ái quốc và sự hăng hái của các vị lang đạo.

Tôi gửi lời chúc mừng các vị lang đạo và toàn thể đồng bào mạnh khoẻ.

Chào thân ái và quyết thắng

Ngày 21 tháng 2 năm 1947

Chủ tịch Chính phủ Việt Nam

Dân chủ Cộng hoà

HỒ CHÍ MINH".

- Hồi ký của Thiếu tướng Hoàng Hữu Kháng và hồi ký của Phạm Văn Ngọc. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Cục Cảnh vệ Bộ Nội vụ.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 64.

Tháng 2, sau ngày 21 19)

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Thanh Hoá kiểu mẫu nêu rõ mục đích, phương châm, cách làm cụ thể để xây dựng Thanh Hoá trở thành một tỉnh kiểu mẫu.

- Bút tích bài viết. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 65-67.

Tháng 2, sau ngày 22

Nhận được báo cáo: ngày 22-2-1947, máy bay giặc Pháp oanh tạc đồn điền Chi Nê, nơi đặt nhà máy in bạc đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, gây tổn thất nghiêm trọng cho cơ quan ấn loát, tài sản của điền chủ Đỗ Đình Thiện cũng bị thiệt hại nặng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã gửi thiếp thư dưới đây cho gia đình
ông Thiện:

"Chú thím Thiện,

Được tin chú thím, nhà Hiền và các cháu đều bình an, tôi rất vui lòng. Mất của cải, không sợ. "Còn trời còn nước còn non, thì còn của cải bà con họ Hồ". Kháng chiến thành công, ta làm ra của khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khoẻ. Hôn các cháu.

Chào thân ái và quyết thắng".

- Bút tích thiếp thư. Bản gốc lưu tại gia đình ông Đỗ Đình Thiện.

Tháng 2, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc một số việc cụ thể liên quan đến công tác di chuyển và nội quy tản cư của các cơ quan Chính phủ.

Cùng ngày, Người viết thư gửi J. Xanhtơni (Jean Sainteny) - Uỷ viên Cộng hoà Pháp, khi biết tin ông ta sắp sửa về Pháp. Bức thư viết:

"Gửi ông Xanhtơni, Uỷ viên Cộng hoà Pháp.

Bạn thân mến,

Tôi vừa nhận được tin ông sắp trở về Pháp. Xin gửi tới ông và bà Xanhtơni lời chúc sức khoẻ, thượng lộ bình an.

Tôi tin chắc rằng, cũng như tôi, ông lấy làm tiếc một cách sâu sắc, rằng những cố gắng chung của chúng ta vun đắp cho hoà bình đã bị phá huỷ bởi một cuộc chiến tranh giữa những người anh em này. Tôi đã hiểu ông khá rõ, đủ để nói với ông rằng, ông không phải chịu trách nhiệm về chính sách vũ lực và tái chinh phục này.

Vì vậy, tôi muốn được nhắc lại với ông, mặc dù những điều đã xảy ra, giữa ông và tôi, chúng ta vẫn là bạn. Và tôi có thể khẳng định với ông, rằng nhân dân hai nước chúng ta vẫn là bạn của nhau.

Đã xảy ra bao nhiêu chết chóc và tàn phá!

Ông và tôi, chúng ta phải làm gì bây giờ?

Chỉ cần nước Pháp công nhận nền độc lập và sự thống nhất của Việt Nam thì ngay lập tức cuộc chiến sẽ ngừng, hoà bình và niềm tin cậy lẫn nhau sẽ trở lại, và chúng ta sẽ lại có thể bắt tay vào công cuộc lao động và kiến thiết vì hạnh phúc chung của hai dân tộc chúng ta.

Về phần tôi, tôi sẵn sàng cộng tác vì hoà bình, một nền hoà bình công bằng và vinh dự cho cả hai nước. Tôi hy vọng rằng, về phía ông, ông cũng sẽ hành động theo hướng đó. Hãy cầu Chúa ban cho chúng ta thành công!

Người bạn tận tâm của ông

24-2-1947

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Jean Sainteny: Face à Ho Chi Minh (Đối diện với Hồ Chí Minh), Seghers Paris, 1970.

- Tạp chí Xưa và Nay, số 34, tháng 12-1996.

- Jean Sainteny: Câu chuyện về một nền hoà bình bị bỏ lỡ, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 395-396.

Tháng 2, sau ngày 21, trước ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi đồng bào thượng du, biểu dương tinh thần yêu nước của đồng bào các dân tộc thiểu số trong công cuộc kháng chiến cứu nước.

Người cảm ơn đồng bào và trân trọng hứa: "Đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, Tổ quốc và Chính phủ sẽ luôn luôn ghi nhớ những công lao của các đồng bào".

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng  Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 70.

Tháng 2, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh thảo bức điện mật gửi ông Đặng Việt Châu, yêu cầu:

"1- Gửi mau tờ trình việc lập Uỷ ban sáu châu thượng du, nói rõ vẫn thuộc quyền hành chính tỉnh Thanh và có phái viên của Chính phủ tham gia Uỷ ban đó. Làm khéo và mau. Không nên trễ. Chính phủ sẽ y ngay.

2- Nói cụ Lê Thước gửi chương trình thiết thực tăng gia sản xuất ra để Chính phủ duyệt y đặng thi hành ngay".

11 giờ, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc gửi điện cho Chủ tịch tỉnh Thanh Hoá Đặng Thai Mai
và ông Đặng Việt Châu đăng báo thư của Hồ Chủ tịch
Gửi đồng bào thượng du và động viên các quan lang và dân chúng trả lời. Người còn hỏi về thời gian họp Hội đồng Chính phủ.

- Bút tích điện và thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các ông Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Văn Lưu dặn những công việc cụ thể cho việc chuẩn bị địa điểm cuộc họp Hội đồng Chính phủ ngày 2-3-1947 ở Quốc Oai (Hà Tây), và hỏi về việc thả các cha cố bị tạm giữ.

Trong ngày, Người còn viết thư cho ông Hoàng Hữu Nam, đề nghị:

- Nhắc ông Vũ Đình Huỳnh báo cáo tình hình ở Ninh Bình.

- Trả lời về việc giúp Lào và Campuchia.

- Tổ chức sơ tán cho Hoa kiều ở Sơn Tây.

- Báo cáo về tình hình ở Lào Cai.

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 26/SL, ấn định "trong niên khoá 1947, cho thu trong toàn quốc một số bách phân phụ thu là một phần trăm (1%) về thuế điền thổ".

- Sắc lệnh số 27/SL, ấn định thể thức và chế độ thuế trực thu áp dụng trong toàn quốc trong thời kỳ kháng chiến và cho đến khi có lệnh mới.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Hoàng Hữu Nam, nhắc bốn việc:

- Xử lý ngay (bắt và làm án) những cán bộ ngành công an ăn tiền của dân.

- Làm rõ quan hệ và quyền hạn giữa Bộ Nội vụ với Uỷ ban hành chính.

- Báo cáo tình hình cụ thể ở tỉnh Lào Cai.

- Đề nghị các ông Vũ Đình Huỳnh và Cẩn trả lời về tình hình ở tỉnh Ninh Bình.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Chiến đấu về tình hình sức khoẻ của Người, về lý do Pháp chưa điều đình với ta, về cuộc kháng chiến của quân và dân miền biển.

Trả lời câu hỏi: "Nếu Pháp điều đình với một nhóm người khác, thì thái độ của Chính phủ ta sẽ thế nào?", Người nói:

"Bất kỳ Pháp điều đình với ai, nếu Tổ quốc ta được thống nhất độc lập thật thà, đồng bào ta được tự do dân chủ thật thà, thì Chính phủ ta và quốc dân ta sẽ thoả thuận. Bất kỳ ai mà phản bội quyền lợi của Tổ quốc và của đồng bào, thì Chính phủ và nhân dân ta sẽ coi họ là những người phản quốc. Và cứ kháng chiến".

- Bản chụp bút tích, lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 68-69.

Tháng 3, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các đồng chí
Bắc Bộ.

Người căn dặn đoàn thể cũng như mỗi đảng viên phải đem hết tinh thần, lực lượng nhằm vào một mục đích: đánh đuổi thực dân Pháp và làm cho nước nhà thống nhất, độc lập.

Người nêu những khuyết điểm cần sửa chữa ngay, như: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu, óc hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm, ích kỷ, hủ hoá và nhấn mạnh phải "kiên quyết khắc phục những khuyết điểm vừa kể trên thì chúng ta mới chắc đi đến hoàn toàn thắng lợi" 20).

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 71-75.

Tháng 3, ngày 2

20 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo về tình hình quân sự, ngoại giao, kiểm điểm các mặt hoạt động. Quan trọng và cấp bách nhất là vấn đề nhanh chóng dời cơ quan Chính phủ lên Phú Thọ.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 27b/SL, về việc cấp đất công hoang ở những miền gọi là "vùng tiểu dinh điền" cho các công dân Việt Nam trên 18 tuổi.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 45.

Tháng 3, ngày 4

Mờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sơn Tây qua bến Trung Hà sang đất Phú Thọ trên đường di chuyển lên căn cứ Việt Bắc.

Người vào nghỉ chân ở nhà cụ Nguyễn Liên 21).

Tối, Người chuyển đến nhà ông Hoàng Văn Nguyên 22) ở Xóm Đồi, xã Cổ Tiết, Tam Nông, Phú Thọ.

Thời gian ở Cổ Tiết (từ ngày 4-3-1947 đến ngày 18-3-1947), Người dùng bí danh Xuân trong các giấy tờ giao dịch. Hằng ngày, Người tranh thủ thời gian đọc các sách viết về lịch sử Việt Nam, dịch cuốn Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, viết một loạt bài nói về lịch sử kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, thảo các văn thư gửi Quốc hội và Chính phủ Pháp, thư kêu gọi đồng bào đẩy mạnh sản xuất, phục vụ kháng chiến.

- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón Bác, 1990, tr. 11-14.

- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1990, tr. 233-234.

Tháng 3, ngày 5

Sau trận quân Pháp tấn công ra ngoại vi Hà Nội 23), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi đồng bào toàn quốc vạch rõ âm mưu của địch và kêu gọi mọi người: "Chúng ta không hoang mang. Chúng ta phải nhẫn nại, phải cương quyết. Thắng lợi cuối cùng nhất định về tay ta".

Đồng thời, Người viết Thư gửi đồng bào hậu phương kêu gọi mọi người hãy an ủi, giúp đỡ đồng bào tản cư với tinh thần:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Cùng ngày, Chủ tịch viết Thư gửi Quốc hội và nhân dân Pháp trình bày sự thật về vấn đề Việt Nam nhân dịp Quốc hội Pháp sắp họp thảo luận vấn đề này.

Trong sáu điểm cụ thể của nội dung bức thư, Người nêu rõ thái độ thiện chí của nhân dân Việt Nam đối với nước Pháp và nhân dân Pháp, lên án sự bội tín bất nhân của những người đại diện nước Pháp ở Đông Dương và một lần nữa, Người nhắc lại với Quốc hội và nhân dân Pháp lập trường và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mà trước đây Người đã nhiều lần nêu lên.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 80-84.

Tháng 3, ngày 6

Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi các đồng chí phục vụ đến hội ý. Mọi người ngồi quây quần thành một vòng tròn. Người nhìn anh em rồi nói với giọng trầm ấm:

- Chiến sự đang ngày một lan rộng, mọi sinh hoạt bây giờ các chú phải quân sự hoá, không thể đi ôtô được nữa, dễ bị lộ bí mật. Ai có xe đạp thì sử dụng, người còn lại sẽ đi bộ. Các chú may cho mỗi người một chiếc ba lô để đựng đồ và may cho Bác một cái để Bác đeo máy chữ.

Sau đó, Người nói đến tình hình chiến sự và giải thích về đường lối kháng chiến của ta:

- Sức ta bây giờ như chàng trai mười sáu, mà thế giặc bây giờ như một lão già quỉ quyệt độc ác. Nếu ta cậy sức đánh bừa thì sao chắc thắng được. Phải vừa đánh vừa nuôi cho sức mình khoẻ lên. Khi sức ta đã khoẻ, giặc suy yếu dần, ta mới lừa thế quật ngã nó, như vậy mới chắc thắng. Cho nên kháng chiến trường kỳ mới nhất định thắng lợi.

Rồi Người mỉm cười nói tiếp:

- Các chú ở đây, nếu gọi tên các chú thì dễ lộ nơi Bác ở. Để giữ bí mật và cũng để thể hiện quyết tâm kháng chiến của chúng ta, hôm nay Bác sẽ đặt lại tên cho các chú là Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.

(Không cố ý sắp đặt mà vừa đúng 8 người, 4 là người Kinh, 4 là người dân tộc).

Người hỏi thêm:

- Các chú có biết tại sao Bác lại đặt tên cho các chú như vậy không? - Và giải thích - Nhiệm vụ của Bác hiện nay là cùng toàn Đảng, toàn dân đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Đó vừa là nhiệm vụ trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài. Bác đặt tên cho các chú như vậy cũng để hằng ngày nhìn thấy các chú hoặc gọi tên các chú là nhắc nhở Bác phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.

Tám anh em như trở thành một khẩu hiệu ngày đêm sống bên Người. (Trong số các đồng chí đó, nếu do nhu cầu chuyển công tác khác thì người được chọn vào thay thế sẽ được mang bí danh của người cũ. Do đó, có ba người mang tên Trường, hai người mang tên Nhất, hai người mang tên Thắng).

- Chuyện kể của những người phục vụ Bác Hồ,  Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2003, tr. 161-172.

- Trần Đương: Những người được Bác Hồ đặt tên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 95-97.

Tháng 3, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các ông Phạm Văn Bạch và Nguyễn Văn Tây (Phòng Nam Bộ) 24).

Trong thư, Người nhấn mạnh: "Dù gay go mấy, chúng ta cũng không sợ, không hoang mang, vì chúng ta đã biết trước những sự gay go khốn nạn 25) đó. Vì chúng ta tự tin đủ sức khắc phục nó. Và vì chúng ta chắc thắng lợi cuối cùng sẽ về tay ta".

Cuối thư Người vẽ hai nửa vòng tròn cắt nhau để giải thích cuộc chiến giữa ta và Pháp. Nửa vòng tròn phía trên, màu đỏ, là cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, lúc đầu có khó khăn (đoạn vòng tròn cong xuống), sau vươn lên thắng lợi. Nửa vòng tròn phía dưới, màu xanh, tượng trưng cho cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, lúc đầu tạm thời thắng lợi (đoạn vòng tròn cong lên), nhưng cuối cùng cũng sẽ thất bại.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 85.

Tháng 3, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Giấy giới thiệu cho một đại diện Hoa kiều ở Việt Nam với các anh em cán bộ phụ trách địa phương. Giấy giới thiệu viết:

"Tôi xin giới thiệu với các anh em phụ trách địa phương ông Cốc Tinh Han là đại biểu Hoa kiều ở Thái Nguyên.

Nếu có việc gì can hệ xảy ra giữa Hoa kiều và người Việt Nam, anh em nên trực tiếp liên lạc cùng giải quyết với ông trên lập trường Hoa - Việt thân thiện".

Người còn ghi chú bên dưới: "Ông Cốc Tinh Han tức Quách Lương Thái được mang vũ khí để tự vệ".

- Sách ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc, Bắc Kinh, 1995, ảnh số 144, tr. 42.

Tháng 3, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trả lời phỏng vấn của phóng viên các báo Việt Nam.

Phát biểu về lời tuyên bố của Thủ tướng Pháp Ramađiê (Ramadier) ngày 6 tháng 3 vừa qua, Người tỏ ý tiếc rằng Chính phủ Pháp một mặt thì nói "nước Pháp không phản đối nguyện vọng thống nhất của người Việt Nam", nhưng một mặt lại cố sức dùng vũ lực. Chủ tịch khẳng định:

"Nếu chiến tranh kéo dài, thì khối Liên hiệp Pháp cũng hỏng, lợi quyền Pháp ở Á Đông cũng mất, nước ta sẽ bị tàn phá tiêu điều. Nhưng dù tiêu điều đến đâu, non nước này vẫn là non nước Việt Nam. Trên đống xương máu, trên đống tro tàn, thanh niên ta, con cháu ta, sẽ xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 86.

Tháng 3, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Nội vụ những công việc cần làm ngay để ổn định lòng dân, chấm dứt tình trạng lộn xộn do việc quân Pháp mở rộng tiến công quân sự.

Người nhắc Bộ Nội vụ phải quan tâm việc củng cố các Uỷ ban hành chính, làm tốt công tác tản cư và xây dựng hậu phương vững mạnh, chú ý vấn đề phòng gian bảo mật.

Cùng ngày, Người viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ cảm ơn một số việc làm tốt có kết quả của ông và nhắc Giám mục thực hiện những điều đã hứa. Đồng thời, Người viết thư gửi ông Vũ Đình Huỳnh, đề nghị "Chú bỏ bức thư này 26) vào phong bì tử tế, rồi đưa đến cho cụ Từ... Xong các việc, chú điện về báo cáo".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 28/SL, về việc sửa đổi địa giới của huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) và thị xã Vinh - Bến Thuỷ.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 87-89.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29/SL, gồm 10 chương, 187 điều khoản, quy định mối quan hệ giữa chủ (người Việt Nam hay người nước ngoài) với công dân Việt Nam tại các nhà máy, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Nguyễn Văn Lưu, yêu cầu: "Bảo điện đài phải bỏ hai chữ Phú Thọ đi để giữ bí mật" và "Nói với Nam 27) thông tri các cơ quan phải giữ bí mật".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Bộ Nội vụ nhắc vấn đề di chuyển ngay các cơ quan đến nơi an toàn, đề phòng chiến sự xảy ra.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 29b/SL, về việc lập Ngoại thương Cục thuộc Bộ Kinh tế, định thể thức về ngoại thương, ấn định chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và tổ chức của Ngoại thương Cục.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 30/SL, cử ông Bộ trưởng Bộ Lao động Nguyễn Văn Tạo, đặc nhiệm việc tản cư và di cư.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 18

Chiều tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Cổ Tiết qua bến Ghềnh, Ba Triệu, sang xã Xứ Nhu, qua phố huyện Lâm Thao, xã Xuân Dũng, chuyển đến ở và làm việc tại Chu Hoá, huyện Lâm Thao, Phú Thọ.

Thời gian ở Chu Hoá (từ 18-3 đến 29-3-1947), Người đã chủ trì một số cuộc họp của Thường vụ Trung ương và Hội đồng Chính phủ. Các ông Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng... thường đến báo cáo tình hình với Người.

- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón Bác, 1990, tr. 15-16.

- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1990, tr. 234.

Tháng 3, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bức thư gửi ông Hoàng Hữu Nam. Một thư gợi ý nên có chế độ phụ cấp cho những cán bộ "làm việc tận tuỵ nhưng gặp khó khăn về đời sống". Người đề nghị "nên lập một danh sách những người đáng giúp, bàn với Hiến 28) rồi tìm cách giúp những người đáng giúp mà tránh khỏi sự nạnh kẹ". Và nhắc ông Nam cần đôn đốc công việc phá đường ở Phú Thọ, "không thì đến lúc gấp, làm không kịp. Và trong lúc dân đến làm việc đó, nên có người đến tuyên truyền giải thích và khuyến khích họ".

Người còn hỏi ý kiến ông Nam nên có những hình thức gì để tranh thủ, lôi kéo các thổ ty, lang đạo.

Một thư dặn ông Nam đến thăm cụ Vi Văn Định và "hỏi xem cụ có thể đi Lào Cai, Hoà Bình được không? Nếu đi được thì tốt lắm".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các sắc lệnh:

- Sắc lệnh số 31/SL, về việc sửa đổi điều 3 Sắc lệnh số 131/SL ngày 20-7-1946 về tổ chức tư pháp và công an.

- Sắc lệnh số 32/SL, về việc sửa đổi điều 9 Sắc lệnh
số 40/SL ngày 29-3-1946 về bảo hiểm quyền tự do của
công dân.

- Sắc lệnh số 32b/SL, ấn định Quỹ tản cư, di cư toàn quốc là 30 triệu đồng trích từ ngân sách chung năm 1947 và do ông Bộ trưởng Bộ Lao động sử dụng.

- Sắc lệnh số 33/SL, tăng mười lần tất cả các số tiền phạt, tối thiểu và tối đa, đã được ấn định trong các Luật hình ban bố trước ngày 19-8-1945.

- Sắc lệnh số 34/SL, về việc sửa đổi điều 2 Sắc lệnh số 1/SL, ngày 20-12-1946 về Uỷ ban bảo vệ khu và tỉnh.

- Sắc lệnh số 35/SL, về việc sửa đổi điều 4, bãi bỏ điều 6 và điều 10 của mục 4 trong Sắc lệnh số 34/SL, ngày 25-3-1946 về tổ chức Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 36/SL, bổ nhiệm ông Trần Dụ Châu, nguyên Thanh tra hành chính Sở Hoả xa, giữ chức Cục trưởng Cục Quân nhu Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 37/SL, bổ nhiệm ông Lê Khắc làm Cục trưởng Cục Giao thông công binh Bộ Quốc phòng.

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, yêu cầu điều tra hai vụ án đương sự có đơn khiếu nại. Người nhắc lại đề nghị phải tiến hành kiên quyết, "tiếc không được", đối với việc tiêu thổ kháng chiến và lưu ý về thái độ đối với đồng bào thiểu số.

Cùng ngày, Người hoàn thành tác phẩm Đời sống mới 29) (ký bút danh Tân Sinh) làm tài liệu hướng dẫn và tuyên truyền cuộc vận động xây dựng nếp sống mới. "Trong lúc kháng chiến cứu quốc chúng ta phải đồng thời kiến quốc. Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc".

Dưới hình thức hỏi - đáp, cuốn sách giới thiệu một cách vắn tắt, rõ ràng, thiết thực, dễ hiểu những nội dung của đời sống mới và nêu ra những yêu cầu cụ thể đối với mỗi người, mỗi gia đình, từng giới và từng ngành.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 91-110.

Tháng 3, ngày 21

Nhận được nhiều Quyết tâm thư của các đoàn thể, các đơn vị bộ đội, các tổ chức tôn giáo... từ khắp nơi gửi về, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn đồng bào và trịnh trọng hứa: "Chính phủ quyết làm trọn nhiệm vụ kháng chiến cứu quốc, quyết không phụ lòng trông cậy của quốc dân, và quyết tranh lấy quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc".

Trong ngày, Người viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, yêu cầu chỉ thị cho Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, báo Cứu quốc, phải di chuyển ngay các máy móc, không được do dự trì hoãn.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 111.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trả lời phỏng vấn của các nhà báo xung quanh cuộc tranh luận về vấn đề Việt Nam tại Quốc hội Pháp2.

Người tỏ ý tiếc vì "nhiều vị đại biểu Pháp không hiểu rõ tình hình Việt Nam mà lại cố ý bịa đặt những điều sai hẳn sự thực, làm cho Nghị viện và nhân dân Pháp thêm bối rối". Một lần nữa, Người nhắc lại thiện chí của nhân dân Việt Nam trong quan hệ Pháp - Việt.

Cùng ngày, Người gửi thư tới Phó Chủ tịch Chính phủ Ấn Độ Nêru và các vị đại biểu dự hội nghị nhân ngày khai mạc Hội nghị Liên Á.

Bức thư có đoạn:

"Thay mặt nhân dân Việt Nam và riêng tôi, tôi xin chúc các ngài thắng lợi rực rỡ. Nhân dân Việt Nam, bộ phận của đại gia đình châu Á, đang đấu tranh giành thống nhất và độc lập. Chúng tôi mong rằng tất cả các nước anh em ở châu Á hết lòng giúp chúng tôi".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 112-114.

- Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi báo Vệ quốc quân 30) nêu rõ nhiệm vụ của tờ báo là nâng cao tinh thần và kỷ luật cho bộ đội, giáo dục bộ đội thực hiện 12 điều kỷ luật được Người nêu cụ thể trong thư.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 115.

Tháng 3, ngày 28

Nhân dịp 100 ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ và đồng bào ngoài Bắc gửi điện biểu dương tinh thần bền bỉ hy sinh chiến đấu của đồng bào Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ.

Bức điện có đoạn:

"Sự anh dũng của đồng bào trong đó đã làm gương cho đồng bào toàn quốc noi theo. Chúng ta đồng tâm hiệp lực, không sợ gian nan, kiên quyết tranh đấu đến cùng, thì trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 38/SL, sửa đổi điều 1 của Sắc lệnh số 34/SL ngày 19-3-1947 về thành phần của các Uỷ ban bảo vệ khu, tỉnh, huyện và xã.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 116.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Chu Hoá. Theo quốc lộ 2, Người qua Tiên Kiên, Phú Lộc, Phú Hộ, Châu Mộng... trên quãng đường dài gần 50 km.

- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón Bác, 1990, tr. 16.

Tháng 3, ngày 30

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến xã Yên Kiện (Đoan Hùng, Phú Thọ) và ở lại đây ba ngày (30, 31-3 và 1-4-1947).

Trong những ngày này, máy bay địch hoạt động dữ dội. Ban ngày, Người phải mang tài liệu ra rừng làm việc, tối mới về ngủ. Nhà cửa chật chội, Người và các đồng chí phục vụ phải tháo cánh cửa kê xuống đất làm giường nằm.

- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón Bác, 1990, tr. 17-18.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Chính phủ, Quốc hội, nhân dân Pháp và các nước dân chủ trên thế giới, tố cáo thực dân phản động Pháp cố ý phá hoại hoà bình, đang thực hiện chính sách vũ lực hòng cướp nước Việt Nam và bắt dân Việt Nam làm nô lệ.

Người nêu rõ: nhân dân Việt Nam chỉ muốn độc lập và thống nhất, chỉ muốn hoà bình, nhưng cũng quyết tâm tự vệ đến giọt máu cuối cùng, "quyết không chịu mất nước làm nô lệ thực dân lần nữa".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 117-118.

Tháng 3

Trên đường lên ATK (An toàn khu) Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn cán bộ được nhân dân địa phương tặng một gánh xôi lúa. Đồng chí trưởng đoàn lên báo cáo và xin ý kiến. Người nói:

- Ta vừa mới ăn cơm xong, để đến mai ăn đỡ được bữa sáng...

Sáng hôm sau, thấy vẫn được bát cơm như thường lệ, Người hỏi:

- Thế xôi lúa đâu?

- Thưa Bác, lúc dân mang đến nóng, ăn ngay thì được, giống xôi lúa ở đây nó thế. Để đến hôm sau thì phía trên còn ăn được, ở dưới thì đã thiu.

Bác nói:

- Thế sao các chú không nói cho Bác rõ. Có phải cái gì Bác cũng biết đâu. Thôi đừng tiếc nữa. Trời còn mờ sáng, tìm chỗ nào suối sâu ấy, đổ xôi xuống, rửa sạch thúng trả cho dân, nhớ cảm ơn cẩn thận.

- Báo Tiền phong, số 13, ngày 27-3-1990.

Tháng 4, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 39/SL, huỷ bỏ tất cả các kiểu tem trước bạ và giấy tín chỉ đã lưu hành trước ngày 19-12-1946; ấn định cách thức thu thuế, tem trước bạ mới.

- Sắc lệnh số 40/SL, cho phép một kiều dân Trung Hoa được nhập quốc tịch Việt Nam.

Tối, Người rời Phú Thọ sang Tuyên Quang.

-  Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Vĩnh Phú: Vĩnh Phú những lần đón Bác, 1990, tr. 18.

Tháng 4, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nơi ở mới: làng Xảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

Lúc đầu, Người ở tạm trong nhà dân, sau ra ở trong một chiếc lán mái lợp lá, vách che liếp do các đồng chí phục vụ làm.

Trong khu vực lán, Người tăng gia, trồng bí đỏ.

- Tài liệu của Ban Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, từ ngày 3 đến ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng, bàn việc cụ thể hoá đường lối kháng chiến, rút kinh nghiệm những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

Tháng 4, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Vũ Đình Huỳnh thông báo lại một số ý kiến của Giám mục Lê Hữu Từ trong thư gửi cho Người.

Người căn dặn ông Huỳnh: "Nhiệm vụ của chú ở đó là để cùng với cụ Từ, dàn xếp việc xích mích giữa đồng bào lương giáo, để thực hiệnđoàn kết kháng chiến.

Vì vậy, chú cần phải khôn khéo và cẩn thận, từ lời nói cho đến việc làm".

Và yêu cầu "Bất kỳ thế nào, chú phải lập tức đi gặp cụ Từ, và giải thích rõ ràng, làm cho hết sự hiểu lầm đó".

Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 41/SL, về việc thành lập Uỷ ban hành chính đặc biệt miền thượng du tỉnh Thanh Hoá để giúp Uỷ ban hành chính tỉnh giải quyết công việc của địa phương.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 119-120.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam nhắc phải làm gấp việc di chuyển các Bộ, và dặn: "Đường khó đi. Dù có xe hơi cũng không chắc đi được. Vậy, tốt nhất là dùng xe bò, xe ngựa". "Phải giải thích cho các Bộ trưởng hiểu: chịu khó mấy hôm mà an toàn, hơn là cầu yên và chờ nước đến chân mới nhảy, và dặn họ giải thích với gia quyến họ". "Phải cử người thạo việc đi theo để lúc gặp việc khó khăn, biết cách giải quyết và biết nâng đỡ tinh thần của đàn bà, trẻ con".

Người còn viết thư gửi ông Lê Văn Hiến, yêu cầu khẩn trương di chuyển cơ quan và máy móc lên Việt Bắc để chủ động đề phòng quân Pháp tấn công.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 42/SL, quy định kể từ ngày 1-1-1947, bãi bỏ các ngân sách các cấp kỳ, tỉnh, thành phố, thị xã, khu tự trị và sáp nhập vào Quỹ toàn quốc. Riêng Quỹ đặc biệt Quốc phòng vẫn giữ như cũ.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 65.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam, nhắc nhở "một khuyết điểm chính trị rất to", đó là "trên đường Tuyên – Thái 31), xe cộ (vừa xe ngựa, xe ôtô) rất bừa bãi, không camouflé 32) hoặc có cũng rất sơ sài. Như thế là dễ làm mồi cho phi cơ địch, dễ mất xe mất đồ đạc. Hai là địch dễ biết ta đi phương hướng nào".

Người đề nghị ông Nam "phải ra lệnh cho công an, tự vệ, hễ thấy bất kỳ thứ xe gì, không cải trang thì giữ lại bắt cải trang cẩn thận, rồi mới cho đi".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 9

17 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam báo tin quân địch chuẩn bị tấn công và chỉ thị "nhân viên và tài liệu Chính phủ phải dời ngay vào nơi an toàn. Lúc dời phải rất bí mật, chỉ một số người rất ít, rất cần thiết ở lại, nhưng cũng phải chuẩn bị sẵn sàng".

Người đề nghị ông Nam báo ngay cho ông Lê Văn Hiến biết tin này.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ bắt đầu từ 20 giờ 30. Cuộc họp kéo dài tới 2 giờ sáng hôm sau. Trọng tâm thảo luận là vấn đề ngoại giao.

Kết thúc phiên họp, Người yêu cầu tất cả các vị Bộ trưởng nhanh chóng thu xếp chuyển vào an toàn khu ngay, càng sớm càng tốt.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 43/SL, cấp cho Ngoại thương Cục 20 triệu đồng làm vốn hoạt động ban đầu.

- Sắc lệnh số 44/SL, về việc bổ nhiệm Giám đốc Nha tiếp tế.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 74-75.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 45/SL, thiết lập Toà án binh tối cao và quy định thành phần, thẩm quyền xét xử của toà án này.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào cả nước sau ngày Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng mất.

Người ca ngợi nhân cách, đức độ, lòng yêu nước thương dân của cụ Huỳnh và kêu gọi toàn thể đồng bào hãy bày tỏ lòng tiếc thương đối với cụ bằng cách "càng đoàn kết chặt chẽ, càng hăng hái kháng chiến", bằng cách "theo gương dũng cảm, nối chí quật cường của cụ", bằng cách "hoàn thành sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà cụ đã ra sức đeo đuổi suốt đời".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 121-122.

Tháng 4, ngày 30

Hội đồng Chính phủ họp. Các thành viên ngồi trên mấy chiếc chiếu trải dài, giữa để mấy ngọn đèn dầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp.

Cuộc họp bắt đầu lúc 19 giờ và kết thúc hồi 3 giờ sáng hôm sau (1-5) để bàn các việc:

- Cử người thay cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Hoàng Hữu Nam (vừa mới mất).

- Vấn đề trao đổi đại diện ngoại giao theo đề nghị của Chính phủ Inđônêxia.

- Việc thả tù binh và trao trả cho phía Pháp các cha cố người nước ngoài.

- Nghe báo cáo của các Bộ Quốc phòng và Tài chính.

Mở đầu phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mọi người đứng dậy mặc niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng và ông Hoàng Hữu Nam. Người nói về thân thế và sự nghiệp cách mạng của hai vị. Sau đó, Chủ tịch báo cáo trước Hội đồng Chính phủ về tình hình chung trong nước và quốc tế.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL, về việc bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Y tế và Chánh văn phòng Bộ Y tế.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 82.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Sáclơ Phen bức thư viết bằng tiếng Anh dưới đây:

"Ông Phen thân mến,

Tôi rất cảm ơn ông về tình bạn tích cực của ông. Cho tôi gửi lời chúc mừng tốt đẹp tới các bạn bè của chúng ta. Xin gửi tới ông những lời thăm hỏi nồng nhiệt của tôi và Hồ Chí Minh mãi mãi vẫn là bạn của ông.

4/7

Hồ".

-          Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

----------------------------

Chú thích

1) Mật danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó (B.T).

2) Lúc này là Thứ trưởng Bộ Canh nông (B.T).

13 Nay gọi là Mianma (B.T).

4) Chúc mừng năm mới (B.T).

5) Vũ Đình Huỳnh, đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Ninh Bình (B.T).

6) Một bộ phận của Trung đoàn Thủ đô (B.T).

7) Trong sách Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975), trang 25-26 in là "Các em là đội quyết tử. Các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh" (B.T).

8) Giám mục Lê Hữu Từ (B.T).

9) Nguyễn Văn Lưu, lúc đó là Chánh Văn phòng Chủ tịch Chính phủ (B.T).

10) Cù Huy Cận (B.T).

11) Uỷ ban hành chính (B.T).

12) Nguyên văn những câu hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong thư là: 1. Tên tỉnh; 2. Mấy huyện, tên huyện; 3. Mấy xã; 4. Mấy mẫu ruộng; 5. Số dân; 6. Số trâu bò, lợn gà; 7. Mỗi năm có bao nhiêu lúa... chiêm, mùa; 8. Có hoa màu gì khác; 9. Có mấy đồn điền, mấy mẫu; 10. Có thổ sản gì khác; 11. Mấy cái chợ; 12. Mấy trường học; 13. Số người biết quốc ngữ; 14. Công việc bình dân học vụ khá không; 15. Có mấy học sinh trung và tiểu học; 16. Có mấy đại biểu Quốc hội; 17. Ai là người có danh vọng, dân phục; 18. Mấy người Việt Minh, mấy cán bộ; 19. Có những tổ chức nào khác; 20. Có bao nhiêu vệ quốc

13) Chủ tịch nước Cao Miên giải phóng (Campuchia) gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh bức thư báo tin một Uỷ ban giải phóng Việt - Miên - Lào đã được thành lập và kêu gọi sự giúp đỡ của nhân dân Việt Nam. Người đã viết thư trả lời.

14) Đặng Việt Châu, đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Thanh Hoá (B.T).

1) Sau này được Người đặt tên mới là Hoàng Hữu Kháng (B.T).

2) Đồn điền của ông Đỗ Đình Thiện (B.T).

3) Đặc phái viên Bộ Nội vụ tại Ninh Bình (B.T).

18) Trong cuộc gặp gỡ các đại biểu nhân dân Thanh Hoá chiều 20-2-1947, các đại biểu dân tộc thiểu số trong tỉnh vì nhận được thông báo muộn và ở xa nên không về kịp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết gửi đồng bào thiểu số Thanh Hoá lá thư này.

19) Trong nguyên bản không ghi ngày tháng. Căn cứ vào nội dung bài viết, chúng tôi phỏng đoán Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài này sau chuyến đi thăm Thanh Hoá ngày 20-2-1947.

20) Bức thư này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi cho các đồng chí ở Trung Bộ. Người có sửa lại đôi chỗ về câu chữ và bớt một phần về nội dung (xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr. 76-79).

21) Cụ Nguyễn Liên, thân sinh ông Nguyễn Trung lúc đó là Chủ nhiệm huyện bộ Việt Minh Tam Nông (B.T).

22) Cụ Hoàng Văn Nguyên, bố vợ đồng chí Đỗ Văn Mô lúc đó là Phó Chủ nhiệm huyện bộ Việt Minh Tam Nông (B.T).

23) Ngày 2-3-1947, quân đội Pháp đánh nống ra ngoại vi Hà Nội, cố chiếm tỉnh lỵ Hà Đông và một vài làng khác nhằm gây ảnh hưởng với Quốc hội và nhân dân Pháp.

24) Phòng Nam Bộ trực thuộc Chính phủ được thành lập từ tháng 1-1946, có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ theo dõi phong trào kháng chiến ở Nam Bộ, tổ chức chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ.

25) Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng nguyên âm Hán Việt, có nghĩa là khó khăn (B.T).

26) Thư gửi cho Giám mục Lê Hữu Từ (B.T).

27) Hoàng Hữu Nam (B.T).

28) Lê Văn Hiến (B.T).

29) Cuốn sách do Uỷ ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản năm 1947 (B.T).

30) Cơ quan tuyên truyền và giáo dục bộ đội của Quân đội ta. Báo ra hằng tuần. Số đầu tiên ra ngày 22-3-1947. Năm 1951, báo Vệ quốc quân và báo Quân du kích sáp nhập thành báo Quân đội nhân dân (B.T).

31) Tuyên Quang - Thái Nguyên (B.T).

32) Nghĩa là nguỵ trang, cải trang (B.T).

* Năm 1947 - Từ tháng 5 đến tháng 9

Tháng 5, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 47/SL, quy định về tổ chức của Bộ Tổng chỉ huy, Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị và Văn phòng Bộ Tổng chỉ huy quân đội.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm mặt trận X, đã tiếp và trả lời phỏng vấn của các nhà báo Việt Nam có mặt tại đây về cảm tưởng của Người đối với Hội nghị Mátxcơva, về kết quả Hội nghị Liên Á, về tình hình nước Pháp...

Trả lời câu hỏi: Tinh thần các chiến sĩ ta thế nào? Người nhận xét:

"Mặc dầu dầm mưa dãi nắng, khi đói, khi no, bom nổ tứ tung, đạn kêu váng óc, mà tướng sĩ vui vẻ kiên quyết, tinh thần rất cao. Họ rất xứng đáng cái tên: Đội xung phong của dân tộc".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 123-124.

Tháng 5, trước ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên báo L'Humanité, Rơnê Lécmitơ (René L'Hermite). Người nói: "Tôi hoàn toàn tin rằng đình chiến là điều có thể thực hiện được... Chúng tôi khao khát hoà bình và chúng tôi sẵn sàng hoà bình. Chỉ còn tuỳ thuộc vào quyết tâm của Chính phủ Pháp mà thôi".

- Báo Vietnam News Service, Bangkok, ngày 10-5-1947.

Tháng 5, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Hội nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây), đã gửi thư cho Người. Người khuyên các cháu:

"- Biết giữ kỷ luật.

- Siêng học, siêng làm.

- Yêu Chúa, yêu nước".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 125.

Tháng 5, ngày 12

Hồi 22 giờ, tại thị xã Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Pôn Muýt (Paul Mus), đại diện của Cao uỷ Pháp Bôlaéc (Bollaert), để trao đổi về điều kiện ngừng bắn của hai phía Việt - Pháp.

Do dã tâm xâm lược và những yêu sách ngang ngược của thực dân Pháp đòi phía Việt Nam phải đầu hàng 1), cuộc hội kiến đã không mang lại kết quả.

- Hoàng Minh Giám: Bác Hồ, nhà lãnh đạo kiên cường mà lịch thiệp biết bao. Báo Nhân dân, số Xuân Canh Ngọ, 1990.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, t.1, tr.92-93.

Tháng 5, ngày 15

20 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để bàn vấn đề ngoại giao với Pháp sau cuộc hội kiến giữa Người với Pôn Muýt ngày 11 tháng 5. Tiếp đó, nghe báo cáo của Bộ Quốc phòng về tình hình các mặt trận.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 48/SL, cho phép lưu hành trong toàn quốc loại giấy bạc một đồng, năm đồng, mười đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng, một trăm đồng, năm trăm đồng.

- Sắc lệnh số 49/SL, đặt "Giải thưởng Hồ Chí Minh" cho ngành quân giới.

- Sắc lệnh số 50/SL, đặt và quy định việc thưởng Huy chương Quân công và Huy chương Chiến sĩ cho các cá nhân và đơn vị trong quân đội, dân quân tự vệ lập được nhiều thành tích trong chiến đấu. Mỗi loại huy chương đều có ba hạng: hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 95.

Tháng 5, ngày 19

Chào mừng ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí phục vụ chuẩn bị sẵn một bó hoa rừng đến chúc thọ Người. Nhận bó hoa từ tay các đồng chí, Người rất xúc động và đề nghị dành những bông hoa ấy đi viếng mộ đồng chí Lộc 2) vừa mới mất trước đó ít ngày vì bệnh sốt rét.

Cùng ngày, Người rời Sơn Dương (Tuyên Quang) chuyển đến địa điểm mới.

- Vũ Kỳ: Những bức thư kể chuyện Bác Hồ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.17-20.

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến ở và làm việc tại thôn Điền Mạc, xã Thanh Định, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên.

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 25

Sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, tố cáo bọn quân phiệt thực dân Pháp "quen thói hung tàn, bất nhân, vô lễ" đã đưa ra những điều kiện ngang ngược đòi nhân dân Việt Nam phải đầu hàng, đời đời phải quỳ gối cúi đầu làm nô lệ cho chúng. Người kêu gọi mọi người hãy kiên quyết hy sinh chiến đấu, đánh tan bọn quân phiệt thực dân, giành lấy thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.

Cùng ngày, Người viết Thư gửi nhân dân PhápThư gửi anh em giới văn hoá và trí thức Nam Bộ.

Trong Thư gửi nhân dân Pháp, Người nhắc lại thiện chí của Chính phủ và nhân dân Việt Nam, tố cáo thái độ hiếu chiến của bọn quân phiệt thực dân Pháp, và khẳng định: "Bọn quân phiệt thực dân đã bắt buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, chúng tôi lấy câu châm ngôn hiên ngang của các bạn làm châm ngôn của chúng tôi:

"Thà chết không làm nô lệ".

Chúng tôi chiến đấu vì công lý. Chúng tôi sẽ tồn tại; chúng tôi sẽ chiến thắng".

Trong Thư gửi anh em văn hoá và trí thức Nam Bộ, Người nhắn nhủ: "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà 3), mà anh em văn hoá và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc.

Nhân dân ta sẵn lòng thân thiện với nhân dân Pháp, nhưng quyết không chịu làm nô lệ cho thực dân phản động. Anh em văn hoá với trí thức là lớp tiên tri tiên giác 4), càng phải quyết tâm không chịu làm nô lệ".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 126-131.

Tháng 5, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi nam nữ chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích toàn quốc3. Người khen ngợi và đánh giá cao vai trò của lực lượng dân quân, tự vệ, du kích: "Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã".

Người căn dặn những điều cụ thể mà các chiến sĩ cần luôn luôn ghi nhớ và thực hiện trong nội bộ, đối với dân, đối với công việc và đối với kẻ thù.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 132-133.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời 11 câu hỏi của Vasiđép Rao (Vasidev Rao) - thông tín viên Hãng Reuters, liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam, lập trường quan điểm của Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong vấn đề thống nhất và độc lập, vấn đề hoà bình ở Việt Nam và mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước châu Á và thế giới.

Về quan hệ với Pháp, Người nói rõ: "Nếu Chính phủ Pháp có một chính sách rõ rệt đối với Việt Nam thì có thể làm cho dễ dàng việc trở lại điều đình"... "Tuy chúng tôi rất có cảm tình với dân Pháp, nhưng nước Việt Nam không phải đày tớ của Pháp, vậy vấn đề Việt Nam không phải là một việc nhà của Pháp".

Về quan hệ với các nước, Người khẳng định: "Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường 5) là một thái độ bạn bè".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 134-138.

Tháng 6, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 51/SL, tạm thời định giá một đồng bạc Việt Nam bằng hai mươi đồng tiền đồng 6). Mọi sự đổi chác, giao dịch... bằng tiền đồng sẽ tính theo tỷ lệ trên.

- Sắc lệnh số 52/SL, ấn định lại mức thuế nhập nội, thuế xuất ngoại các loại hàng hoá.

- Sắc lệnh số 53/SL, ấn định quy cách kiểu tem
trước bạ.

- Sắc lệnh số 54/SL, bãi bỏ Hội đồng quản trị Ngoại thương Cục ghi trong Điều 2 Sắc lệnh số 29/SL ngày 16-3-1947 và đặt Ngoại thương Cục dưới quyền điều khiển trực tiếp của Bộ Kinh tế. Sắc lệnh ghi rõ hệ thống tổ chức của Ngoại thương Cục, chức năng và quyền hạn của các tổ chức đó.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 2

Tại Tân Trào (Tuyên Quang), 1 giờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ.

Nhắc lại một kỷ niệm trong chuyến đi họp Hội đồng Chính phủ lần này, ông Lê Văn Hiến đã ghi trong nhật ký:

"... Trời mưa, ai nấy đều bị ướt hết cả. Đường đi vất vả quá, cụ Bùi 7) phải đi võng. Chúng tôi kẻ đi bộ, người đi ngựa, nhưng mọi người đều vui vẻ. Khi đến địa điểm đã gặp Cụ 8) và Giáp 9) đến sẵn từ lâu rồi. Thì ra bản này là nơi trước đây, năm 1945, đã họp cuộc Hội nghị dân tộc và sau đó cử lâm thời Chính phủ... Cụ bắt tay từng người, rờ những bộ quần áo ướt sũng của chúng tôi, rồi lập tức cho đốt lửa để mọi người ngồi quây quần xung quanh sưởi và hong áo cho khô".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 102-108.

Tháng 6, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 58/SL, đặt ba loại huân chương: Sao Vàng, Hồ Chí Minh, Độc Lập, do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra sắc lệnh tặng (hoặc truy tặng) cho đoàn thể và những người có công với nước, với dân; hoặc các nhân vật người nước ngoài có công với nước Việt Nam.

Huân chương Sao Vàng chỉ có một hạng, "để tặng những người có công đức vĩ đại với dân tộc".

Huân chương Hồ Chí Minh có ba hạng: hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba, "để tặng những người có tài, đức, có công với dân tộc".

Huân chương Độc lập có ba hạng: hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba, "để tặng những người có công đặc biệt trong việc cứu quốc hoặc kiến quốc".

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Tướng Raun Xalăng (Raul Salan) vừa trở lại Đông Dương nhận chức Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp thay Tướng Valuy (Valluy). Đồng thời, nhờ Xalăng chuyển bức thư của Người viết gửi Lêông Bơlum.

Trong Thư gửi Tướng R. Xalăng có đoạn:

"Vì chúng tôi đã buộc phải chiến đấu, thì các ngài hãy tỏ ra là những chiến binh hào hiệp, những đối thủ quân tử, trong khi chờ đợi chúng ta lại trở thành bạn hữu của nhau. Chúng ta đã từng là bạn. Giữa hai chúng ta hiện nay vẫn là bạn bè của nhau. Ngài muốn như vậy chứ?

Vì tình yêu thương con người, lòng nhân đạo và nhân danh tình bạn của chúng ta, tôi yêu cầu ngài nghiêm cấm binh lính Pháp sát hại dân lành, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá làng mạc và phá huỷ nhà thờ, đền miếu như họ vẫn làm từ trước tới nay.

Tôi đảm bảo với ngài rằng binh lính và thường dân Pháp ở chỗ chúng tôi được đối xử rất tử tế. Tôi hy vọng người của chúng tôi trong tay các ngài cũng được đối xử như vậy".

Trong Thư gửi Chủ tịch Lêông Bơlum, sau khi nêu rõ "những nét thật đặc biệt" về nguyên nhân, về diễn biến và hậu quả của chiến tranh, Người viết:

"Vậy làm thế nào để chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn này, làm thế nào để lập lại hoà bình?

Tôi cho rằng, chỉ có một chính sách phù hợp là chính sách mà chính ngài đã đề ra trên báo Dân chúng (ngày 12-12-1946), một chính sách hữu nghị và tin tưởng lẫn nhau, dựa trên sự thống nhất và độc lập của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp.

Vì lợi ích và tương lai chung của hai dân tộc chúng ta, tôi hy vọng các ngài sẽ cố gắng làm cho chính sách khôn ngoan và hào hiệp đó được thực hiện".

- Salan: Fin d'un empire, Edition Press de la Cité, Paris, 1971, tr. 76-77, 450-451.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 141-146.

Tháng 6, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Đại hội Đảng bộ Liên khu IV, căn dặn: "Hội thì phải nghị, nghị thì phải quyết, quyết thì phải hành" và nhấn mạnh: "Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp tức là những người phụ trách vận mệnh an nguy của nước nhà và dân tộc. Vì vậy mỗi đồng chí phải gắng làm cho đúng năm chữ: Trí, Nhân, Dũng, Nghĩa, Liêm... Nếu thiếu một trong năm điều đó, tức là một khuyết điểm to và ảnh hưởng đến công tác.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 55/SL, cho phép ông Frey, kiều dân Áo, được nhập quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Nguyễn Dân.

- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các nhân viên cơ quan Chính phủ, khen ngợi mọi người đã cố gắng vượt qua thiếu thốn gian khổ, cùng nhau đoàn kết, đồng cam cộng khổ tham gia kháng chiến. Người chỉ rõ: cuộc trường kỳ kháng chiến chính là "một viên đá thử vàng đối với mỗi một quốc dân, đồng thời là một trường học để rèn luyện cho cán bộ".

Lấy tư cách "như một người anh", Người nêu một số kinh nghiệm bản thân, khuyên nhủ và căn dặn mọi người những việc làm thiết thực để giữ vững, nâng cao tinh thần và sức mạnh mỗi người góp phần làm cho cuộc kháng chiến cứu nước mau đi đến thắng lợi.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 147-149.

Tháng 6, ngày 17

Tại Tân Trào (Tuyên Quang), từ 14 giờ đến 18 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ.

Từ 20 giờ đến 1 giờ sáng hôm sau (18-6), Người chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ, bàn hai vấn đề chính:

- Kỷ niệm sáu tháng kháng chiến.

- Nghe Bộ trưởng Bộ Quốc phòng báo cáo và thảo luận về tình hình quân sự trong sáu tháng qua.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 56/SL, thành lập Trường Ngoại ngữ, nhằm mục đích đào tạo cán bộ ngoại ngữ cho các ngành trong nước.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 113-114.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 19

Nhân kỷ niệm cuộc kháng chiến toàn quốc tròn sáu tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào và toàn thể các chiến sĩ vệ quốc quân, dân quân tự vệ.

Người nêu rõ những thất bại của địch, sự trưởng thành của ta qua sáu tháng chiến đấu và phân tích những nguyên nhân dẫn tới thắng lợi:Vì kháng chiến của ta là chính nghĩa; Vì đồng bào ta đại đoàn kết; Vì tướng sĩ ta dũng cảm; Vì chiến lược ta đúng; Vì ta nhiều bầu bạn. Người kêu gọi: "Chúng ta quyết hy sinh chịu khổ và gắng sức 5 năm, 10 năm để phá tan cái xiềng xích nô lệ 80 năm vừa qua, để tranh lấy quyền thống nhất và độc lập cho muôn đời sắp đến".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 150-152.

Tháng 6, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi nhân dân thế giới, nêu rõ ý nghĩa cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và kêu gọi nhân dân Pháp, nhân dân châu Á, các nhân sĩ dân chủ trên thế giới hãy cùng hành động với nhân dân Việt Nam, hãy "lên tiếng ủng hộ hoà bình, ủng hộ chính nghĩa, ủng hộ dân chủ, ủng hộ Việt Nam".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 153-154.

Tháng 6, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của một nhà báo nước ngoài về những câu hỏi liên quan đến tính chất của Chính phủ Việt Nam, thời hạn kết thúc chiến tranh, chương trình kiến thiết của Việt Nam sau chiến tranh...

Nói về chương trình kiến thiết bước đầu của Việt Nam sau chiến tranh, Người "rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác thật thà với chúng tôi".

Đề cập tới vai trò của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Người khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế... Địa vị những người trí thức ái quốc Việt Nam là cùng với toàn thể đồng bào, kiến thiết nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thống nhất và độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.155-156.

Tháng 6, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Ban Chấp hành Đảng Dân chủ Việt Nam nhân kỷ niệm lần thứ 3 ngày thành lập Đảng Dân chủ4.

Người chỉ rõ: Đảng Dân chủ có nhiệm vụ rất quan trọng là "làm cho dân chủ thắng lợi hoàn toàn". Người mong các đảng viên Dân chủ nêu cao tinh thần đoàn kết, ra sức thi đua bằng hành động cụ thể trong thực tế cứu nước và xây dựng đất nước, đồng thời từng đảng viên "phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 157.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào trung du và hạ du về việc chống lụt. Người nhấn mạnh: "Lụt cũng là một thứ giặc ghê gớm... Chúng ta cần phải ra sức ngăn giặc lụt cũng như chống giặc ngoại xâm" và kêu gọi mọi người phải coi việc canh đê phòng lụt là công việc thiết thân ai cũng phải tham gia.

"Lụt thì lút cả làng,

Muốn cho khỏi lụt thiếp chàng cùng lo".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.160-161.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo Việt Nam về những lời tuyên bố mới đây của Cao uỷ Bôlaéc (Bollaert).

Người công nhận ông ta đã có những ý kiến đúng đắn về hướng giải quyết cuộc chiến ở Việt Nam, nhưng điều kiện họ đưa ra thì không thể nào chấp nhận được. Một lần nữa, Người nhắc lại thiện chí của Chính phủ ta trong việc giải quyết vấn đề chiến tranh ở Việt Nam.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 158-159.

Tháng 6

Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Sự thật:

1. Bài Cán bộ tốt và cán bộ xoàng (ký bút danh A.G.), đăng trên số 77.

Người chỉ rõ: nơi nào có cán bộ tốt thì "công việc rất phát triển", nơi nào cán bộ xoàng thì "công việc cứ luộm thuộm". Bằng những ví dụ điển hình ở những địa phương có cán bộ "tốt" và cán bộ "xoàng", Người kết luận: "Cán bộ mà lên mặt quan cách mạng thì mọi việc đều lủng củng. Cán bộ mà biết làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, thì việc gì cũng mỹ mãn".

2. Bài Người tuyên truyền và cách tuyên truyền (ký bút danh A.G.) của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên số 79.

Người hướng dẫn cho các cán bộ tuyên truyền cách tuyên truyền để "dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm". Muốn vậy, theo tác giả, người đi tuyên truyền phải hiểu rõ nội dung, phải biết cách nói, phải có lễ độ, phải chịu khó, chịu khổ đi sát với dân.

- Báo Sự thật, số 77 (từ ngày 1 đến ngày 15-6-1947); số 79 (từ ngày 26-6 đến ngày 9-7-1947).

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 139-140, 162-163.

 

Tháng 7, ngày 1

Nhân dịp ông Trần Đăng Ninh, phái viên Bộ Quốc phòng đi công tác ở Hoà Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ba lá thư gửi tới ba ông: Đinh Công Huy - Phó Chủ tịch, Hội trưởng Hội Liên Việt tỉnh Hoà Bình; Đinh Công Niết - Chủ tịch châu Lương Sơn và Đinh Công Phủ - Lang đạo vùng Mai Đà.

Thay mặt Chính phủ, Người khen ngợi các ông đã tận tâm làm việc, vận động đồng bào địa phương hăng hái tham gia kháng chiến, nêu cao tinh thần "ái quốc và oanh liệt" của dòng họ Đinh. Người mong các ông hăng hái hơn nữa, ra sức cổ động thân sĩ, kêu gọi đồng bào Hoà Bình tham gia kháng chiến, giúp đỡ bộ đội, tăng gia sản xuất và phát triển bình dân học vụ.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi thi sĩ Huyền Kiêu sau khi nhận được bản trường ca "Hồ Chí Minh - Tinh hoa dân tộc" dài 300 câu của nhà thơ gửi tặng Người. Toàn văn bức thư như sau:

"Gửi thi sĩ Huyền Kiêu,

Tôi đã nhận được bản trường ca của chú với nội dung cổ vũ đồng bào và chiến sĩ ta hăng hái kháng chiến chống thực dân Pháp và bọn bù nhìn tay sai. Thế là rất tốt.

Tôi mong chú và anh chị em văn nghệ sĩ trong Hội Văn hoá cứu quốc đi sâu hơn nữa vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, sáng tác được nhiều tác phẩm phục vụ cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi của nhân dân ta.

Chào thân ái và quyết thắng

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích các bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 164-165.

- Bản gốc bức thư, lưu tại gia đình ông Huyền Kiêu.

- Báo Pháp luật, số 6-1997.

Tháng 7, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn ông Lê Ngọc Tiến trong Ban Chấp hành Đảng Xã hội Việt Nam5 đã gửi thư cho Người. Trong thư, Người góp một số ý kiến về phương hướng công tác để xây dựng Đảng Xã hội Việt Nam phát triển mau chóng và vững chắc.

20 giờ, Người khai mạc và chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe và thảo luận báo cáo của các bộ về tình hình hoạt động sáu tháng qua.

Phát biểu ý kiến, Người đặc biệt nhấn mạnh đến những chuyển biến của tình hình thế giới, những bước tiến của phong trào quần chúng tại các nước nhược tiểu, các nước dân chủ.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 59/SL, đặt trong Bộ Quốc phòng một Toà án binh gọi là "Toà án binh khu, trung ương". Sắc lệnh quy định rõ thành phần và thẩm quyền xét xử của Toà
án này.

- Sắc lệnh số 60/SL, về việc sửa đổi điều 2 Sắc lệnh số 19/SL ngày 16-2-1947, về chế độ hưu bổng, thương tật tiền tuất cho thân nhân tử sĩ.

- Sắc lệnh số 61/SL, về việc cấm xuất cảnh và nhập nội các tư bản (các thứ tiền tệ nước ngoài, Đông Dương, Việt Nam; các chứng thư hối đoái, các chứng thư ngân hàng, các chứng thư tư hữu, v.v.).

- Sắc lệnh số 62/SL, sáp nhập hai xã Đại Hoá và Kiến An, thuộc huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) vào huyện Can Lộc (Hà Tĩnh).

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.166.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 121.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội đồng Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 122.

Tháng 7, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn các cụ phụ lão, các vị thân hào tỉnh Phúc Yên (nay thuộc Vĩnh Phúc) đã có nhiều sáng kiến hay trong việc động viên đồng bào trong tỉnh tham gia kháng chiến.

Cùng ngày, Người viết thư gửi đồng bào vùng địch tạm chiếm bày tỏ sự thông cảm với những nỗi khổ mà đồng bào đang phải chịu đựng.

Bức thư có đoạn:

"Trong lúc viết thư này, một mặt tôi rất đau lòng vì tôi tài hèn đức mọn, chưa đuổi được giặc ngay để đồng bào chịu khổ cực. Song một mặt tôi rất phấn phát, vì tôi chắc rằng trải qua bước cực khổ, thì chúng ta nhất định thành công, cũng như qua khỏi mùa đông, thì chắc chắn mùa xuân sẽ đến".

Cũng cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một nhà báo nước ngoài. Người đã giải thích về tính chất của Quốc hội Việt Nam; nói rõ thành phần của Chính phủ cùng với chính sách đối nội, đối ngoại của nó; ý nghĩa của Quốc kỳ Việt Nam; vai trò của giai cấp tư sản và trí thức Việt Nam trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc; thái độ đối với những người lỡ đi lầm đường, v.v..

Về phần cá nhân, Người nói:

"Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp lại một cách thực thà: Tôi không có nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ.

Bao giờ đạt được mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thuỷ, đọc sách làm vườn".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.167-174.

Tháng 7, ngày 17

Nhân Ngày thương binh liệt sĩ đầu tiên trong cả nước6 (27-7-1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban Thường trực của Ban tổ chức Ngày thương binh toàn quốc, nói rõ ý nghĩa của ngày kỷ niệm và kêu gọi mọi người có hành động thiết thực giúp đỡ thương binh.

Nhân ngày này, Người gửi tặng một chiếc áo lụa của chị em phụ nữ biếu Người, một tháng lương của Người, tiền một bữa ăn của Người và của các nhân viên làm việc trong Phủ Chủ tịch, tổng cộng là 1.127 đồng 10).

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.175-176.

Tháng 7, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 228-SL/M, cử ông Nguyễn Sơn làm Khu trưởng Chiến khu IV thay ông Lê Thiết Hùng được điều đi nơi khác.

- Sắc lệnh số 229-SL/M, điều ông Lê Thiết Hùng về phụ trách công tác thanh tra quân đội của Bộ Tổng chỉ huy.

- Sắc lệnh số 230-SL/M, về việc lập một phân khu quân sự trong Chiến khu IV gồm các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và cử phân khu trưởng.

- Sắc lệnh số 231-SL/M, cho phép phát hành tại Nam phần Trung Bộ các loại tín phiếu: một đồng, năm đồng, mười đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng, một trăm đồng, năm trăm đồng, có giá trị như giấy bạc Việt Nam, với tổng số giá trị không được quá một trăm triệu.

- Sắc lệnh số 232-SL/M, cử ông Phan Mỹ, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng, giữ chức Chánh Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, thay ông Nguyễn Văn Lưu.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến địa điểm họp Hội đồng Chính phủ (Hồng Thái, Tân Trào, Tuyên Quang). Trời mưa to, nước lũ dâng cao, các vị bộ trưởng chưa đến đủ, Người quyết định hoãn cuộc họp sang ngày hôm sau.

20 giờ, Người cùng với một số vị trao đổi trước mấy vấn đề khẩn cấp, quan trọng là việc cải tổ Chính phủ với mục đích mở rộng thành phần người tham gia để tránh âm mưu chia rẽ của Pháp và để tranh thủ ảnh hưởng đối với quốc tế.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 233-SL/M, cử các chính trị uỷ viên các khu I, II, III, IV, V, X, XII; và Sắc lệnh số 235-SL/M, quy định địa giới Khu XI, Khu II, Khu XIV 11).

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 136.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo về quân sự, ngoại giao, tình hình nội bộ và giải quyết một số vấn đề khẩn cấp ở các bộ.

Người đã trình bày lý do cải tổ và mở rộng Chính phủ, nêu các nguyên tắc để Hội đồng Chính phủ cho ý kiến.

Tối, Người cùng với một số đồng chí bàn riêng về công tác của Đảng đoàn Chính phủ.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 65/SL, về việc cử người thay thế Uỷ viên Uỷ ban hành chính tỉnh Hà Nam.

- Sắc lệnh số 66/SL, về việc cử Phó Chủ tịch huyện Nga Sơn (Thanh Hoá).

- Sắc lệnh số 67/SL, cho phép Uỷ ban hành chính Nam Bộ phát hành công trái (lần thứ hai) để lấy tiền dùng trong khu vực (Nam Bộ) và ấn định số tiền vay nhiều nhất là năm triệu đồng, phát hành làm năm kỳ, lãi suất không được quá 5%.

- Sắc lệnh số 68/SL, bãi bỏ điều 9 Sắc lệnh số 40 ngày 29-3-1946, thay bằng điều 9 mới về trình tự thủ tục việc bắt giam, điều tra, lập và gửi hồ sơ đối với những người bị bắt về tội "xét thấy lời nói hay việc làm của họ nguy hại tới trị an hay kháng chiến".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 136.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen bà Bá Huy đã hăng hái giúp ruộng đất, trâu bò, thóc lúa, tiền bạc để lập một trại an dưỡng cho thương binh.

Bức thư có đoạn:

"Như thế là bà đã giúp sức vào công việc giữ gìn Tổ quốc.

Như thế là bà đã làm kiểu mẫu cho đồng bào thực hành cái khẩu hiệu:

"Có tiền giúp tiền, có sức giúp sức,

Đồng tâm hiệp lực, kháng chiến thành công"".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.177.

Tháng 7, ngày 30

Nhân dịp Đảng Xã hội họp Đại hội toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chào mừng đại hội, bày tỏ niềm phấn khởi "thấy các đồng chí trong Đảng Xã hội Việt Nam đều hăng hái tham gia kháng chiến cứu quốc và ra sức thực hiện đại đoàn kết", và "trân trọng chúc quý Đảng càng ngày càng phát triển".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.178.

Tháng 8, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi các chiến sĩ và nhân dân Nam Dương7 bày tỏ sự đồng tình ủng hộ cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của "anh em Nam Dương" và "tin chắc rằng cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Nam Dương sẽ thắng lợi, cũng như tin chắc rằng cuộc kháng chiến, cứu quốc của nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thành công".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 179.

Tháng 8, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 234-SL/M, bổ nhiệm ông Tôn Đức Thắng, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ, giữ chức Thanh tra đặc biệt toàn quốc.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 5

Nhân dịp giới báo chí họp đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng.

Trong thư, Người nêu cụ thể năm nhiệm vụ của giới báo chí và căn dặn những người làm báo khi viết "lời lẽ phải phổ thông, dễ hiểu, đường hoàng, vui vẻ, làm cho người xem báo có thú vị mà lại có bổ ích".

Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh số 236-SL/M, quy định ông Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia có quyền hạn và chức vụ như một Bộ trưởng và là một thành viên của Hội đồng Liên Bộ 12) trong Hội đồng Chính phủ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 180.

Tháng 8, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng Hội nghị bình dân học vụ Khu XII.

Người khen ngợi các cán bộ bình dân học vụ về những thành tích đã đạt được và mong các Uỷ ban, các đoàn thể và toàn thể đồng bào Khu XII cùng góp sức phát triển bình dân học vụ. "Như thế thì về mặt trận văn hoá, chúng ta cũng sẽ thắng lợi như về các mặt trận khác trong cuộc trường kỳ kháng chiến".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.182.

Tháng 8, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng tới Phó Chủ tịch Chính phủ Ấn Độ Nêru, nhân ngày Ấn Độ tuyên bố
độc lập.

Bức điện có đoạn: "Tin tưởng vào mối cảm tình và tình đoàn kết giữa các dân tộc Ấn Độ và Á châu, dân tộc Việt Nam cương quyết tranh đấu cho được thống nhất và độc lập".

Cùng ngày, Người gửi điện mừng tới ông Ginnát - Toàn quyền Pakixtan, nhân ngày Pakixtan tuyên bố
độc lập.

Bức điện viết: "Thay mặt dân tộc Việt Nam và riêng tôi nữa, tôi trân trọng yêu cầu Ngài nhận và chuyển cho nhân dân Pakixtan lời chúc tụng nhiệt liệt và lời chào mừng thân ái của chúng tôi".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.183-184.

Tháng 8, ngày 17

Tại châu Tự Do (Sơn Dương, Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn về công tác tuyên truyền, việc kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, vấn đề giúp đỡ đồng bào Việt Bắc, lương của cán bộ và một số vấn đề về tài chính, tư pháp.

Cùng ngày, Người viết thư Gửi các bạn thanh niên nhân Hội nghị thanh niên Việt Nam, nhấn mạnh đến vai trò của thanh niên đối với tương lai của đất nước và những phẩm chất đạo đức cần phải có ở thanh niên. Với tư cách "một người bạn có lịch duyệt", Người khuyên thanh niên:

"Chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được.

Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 74/SL, bổ nhiệm ông Khuất Duy Tiến làm Cục trưởng Ngoại thương Cục.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.185-186.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 19

Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào toàn quốcThư gửi đồng bào Việt Bắc.

Trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, sau khi nêu bật ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Người viết:

"Nay cuộc trường kỳ kháng chiến phải tiếp tục cái nhiệm vụ vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám: Phải làm cho nền Dân chủ Cộng hoà chắc chắn, phải làm cho quyền thống nhất độc lập vững vàng... Chúng ta có cái chí quật cường không núng của dân tộc, chúng ta có sự đoàn kết của toàn dân. Chúng ta có cái lòng hy sinh cảm tử của chiến sĩ ở tiền tuyến. Chúng ta có cái sức kiên quyết nhẫn nại của đồng bào ở hậu phương. Đó là những vũ khí luôn luôn chiến thắng quân thù, không lực lượng nào chiến thắng được những vũ khí đó... Chúng ta dám trả cái giá cho thắng lợi, thì chúng ta nhất định thắng lợi".

Trong Thư gửi đồng bào Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại truyền thống cách mạng vẻ vang của nhân dân các dân tộc Việt Bắc và dặn dò những công việc cần làm để Việt Bắc tiếp tục góp phần vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.

Cùng ngày, Người đã trả lời phỏng vấn của các nhà báo. Về câu hỏi "Nghe nói có một bộ phận người Pháp ở đây muốn lập một chính phủ bù nhìn, ý kiến của Chủ tịch đối với bọn người ấy thế nào?", Người nói:

"Một số thực dân phản động có thể có mưu mô đó. Nhưng Cao uỷ Bôlaéc là một nhà đại chính trị, chắc ông thừa biết các kinh nghiệm chính phủ bù nhìn ở Nam Bộ, nó đã không giải quyết được gì, mà chỉ làm kéo dài cuộc chiến tranh và ngăn trở sự thân thiện giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Không lẽ một người sáng suốt như Cao uỷ Bôlaéc lại đi theo con đường đó".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 75/SL, cho phép ông Walter Rudy Stephen, kiều dân Đức, được nhập quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Lê Đức Nhân.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.187-191.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Nguyễn Khánh Toàn. Toàn văn bức thư như sau:

"Chú Lĩnh 13),

Chú ốm đi ốm lại mãi. Mình lo cho sức khoẻ của chú. Phải gắng uống thuốc đi cho khỏi. Hoặc nhờ thầy thuốc tiêm cho. Chớ để ốm mãi như vậy, chú đã yếu mà anh cũng lo.

Thân ái và quyết thắng

Ngày 20 tháng 8 năm 1947

ANH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.194.

Tháng 8, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 70/SL, cử Khu trưởng các Khu XI, XV, Khu phó Khu VI và Chính trị uỷ viên các Khu II, XII.

- Sắc lệnh số 71/SL, cử các Chính trị uỷ viên các Khu VI, VIII, IX.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Vui sống về vấn đề y tế và quân y trong thời kỳ kháng chiến.

Người nói: "Theo tôi biết, thì y tế và quân y đều cố gắng làm việc. Riêng về quân y, vì ở gần bộ đội và gần mặt trận, đã có những bác sĩ, y sĩ, y tá, dược sĩ và chị em khán hộ rất chịu khó và gan góc, đối với anh em thương binh rất tử tế, đối với công việc rất có tinh thần phụ trách. Đó là những điều đáng nhớ, đáng khen. Tuy trong hoàn cảnh khó khăn, anh em y giới đã tự chế được mấy thứ thuốc mới. Đó là một sự đáng mừng.

Y tế và quân y cần phải đoàn kết chặt chẽ, cộng tác mật thiết, phải ra sức đào tạo cán bộ, phát minh thêm thuốc mới".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 76/SL, thành lập Đại đoàn Độc lập.

- Sắc lệnh số 77/SL, cử ông Hoàng Văn Thái - Tổng tham mưu trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam kiêm chức Đại đoàn trưởng Đại đoàn Độc lập; ông Nguyễn Lâm Kính - nguyên Tham mưu trưởng Chiến khu II, giữ chức Đại đoàn phó và ông Lê Vinh Quốc -  nguyên Chính uỷ Trung đoàn 147, giữ chức Chính uỷ Đại đoàn.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 195.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời báo Độc lập về việc mở rộng Chính phủ.

Người nêu rõ: "Chính sách của Chính phủ trước sau vẫn là đại đoàn kết. Đối với các vị quan lại cũ cũng như đối với tất cả các giới đồng bào, những người có tài có đức thì Chính phủ đều hoan nghênh ra gánh việc nước". Và khẳng định: "Trước sự đại đoàn kết của Chính phủ và quốc dân đồng bào, mưu mô chia rẽ của thực dân phản động Pháp nhất định thất bại".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.196.

Tháng 8, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định số 136-M/QĐ, cử Tham chính Văn phòng Chủ tịch Chính phủ.

- Bản chụp quyết định, lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 30 (15-7 âm lịch)

Nhân ngày lễ Phật rằm tháng Bảy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội Phật tử Việt Nam. Người "kính cẩn cầu nguyện Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào", cảm ơn sự đóng góp của đồng bào Phật giáo trong công cuộc kháng chiến cứu nước và mong đồng bào "cố gắng thêm, cố gắng mãi" cho đến ngày kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công.

Bức thư có đoạn:

"Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma.

Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 197.

Tháng 8

Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho thiếu niên và nhi đồng cả nước biểu dương những gương dũng cảm, hy sinh của nhiều cháu từ Nam đến Bắc, khen ngợi những việc làm tốt và khuyên các cháu: "Việc gì có ích cho kháng chiến, có ích cho Tổ quốc thì các cháu nên gắng sức làm. Làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tuổi các cháu còn nhỏ, thì các cháu làm những công việc nhỏ. Nhiều công việc nhỏ cộng lại thành công việc to".

Trong tháng, Người còn viết hai bức thư bằng thể thơ bốn chữ gửi hai em nhi đồng liên lạc của bộ đội Chiến khu II là Phạm Đỗ Hải14) và Lê Văn Thức 15) đã lập công xuất sắc: dụ hàng và bắt sống được lính Pháp.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.192-193, 198-199.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự Lễ khai mạc và huấn thị cho lớp bổ túc cán bộ trung cấp toàn quân do Bộ Tổng chỉ huy tổ chức tại xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1986, t. 2, tr. 127.

-----------------

Chú thích

1) Trong cuộc hội kiến này, phía Pháp đã đưa ra bốn điều kiện cho việc ngừng bắn: 1 - Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho Pháp; 2 - Quân đội Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam; 3 - Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người đã bị bắt; 4 - Chính phủ Việt Nam phải trao trả cho Pháp tất cả những người nước ngoài đã chạy sang phía Việt Nam.

2) Đồng chí Lộc, người được phân công lo việc ăn uống cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch đã quen biết đồng chí Lộc hồi hoạt động ở Thái Lan, ở Trung Quốc, sau đó theo Người về nước tham gia kháng chiến.

3) Phò chính trừ tà: giúp người ngay thẳng, chân chính, trừ diệt kẻ gian ác (B.T).

4) Tiên tri tiên giác: hiểu biết trước (B.T).

5) Ngũ cường: năm nước mạnh, theo quan niệm lúc đó gồm các nước: Liên Xô (cũ), Anh, Pháp, Mỹ và Trung Quốc (B.T).

6) Loại tiền hình tròn, có lỗ vuông, mang niên hiệu Minh Mệnh, Thiệu Trị... vẫn còn lưu hành tại các tỉnh miền Bắc Trung Bộ lúc bấy giờ (B.T).

7) Bùi Bằng Đoàn (B.T).

8) Chủ tịch Hồ Chí Minh (B.T).

9) Võ Nguyên Giáp (B.T).

10) tiÒn ViÖt Nam l­u hµnh trong thêi kú kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p (B.T).

11)  Khu I: gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phúc Yên (cũ).

Khu II: gồm các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu (cũ).

Khu III: gồm các tỉnh Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương (cũ).

Khu IV: gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (cũ).

Khu V: gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai (cũ).

Khu X: gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên (cũ).

Khu XI: Hà Nội.

Khu XII: gồm các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên (cũ).

12) Theo quyết định của Hội đồng Chính phủ ngày 5-7-1947, Hội đồng Liên bộ gồm các vị Bộ trưởng các Bộ Nội vụ, Quốc phòng, Tài chính, Kinh tế, Tư pháp; nay thêm ông Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia.

13) Hồng Lĩnh, bí danh của ông Nguyễn Khánh Toàn, lúc này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục (B.T).

14) Em Phạm Đỗ Hải bị giặc bắt trong khi đang làm nhiệm vụ, đã tìm cách trốn thoát, lại lôi kéo được hai lính địch về theo cách mạng.

15) Em Lê Văn Thức đã dùng súng doạ Tây, bắt nó phải hàng, lấy được súng mang về.

* Năm 1947 - Từ tháng 10 đến tháng 12

Tháng 9, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào cả nước nhân kỷ niệm ngày Quốc khánh lần thứ hai.

Người kêu gọi đồng bào, chiến sĩ và kiều bào ở nước ngoài, hãy tin tưởng vào vận mệnh vẻ vang của Tổ quốc, ra sức đoàn kết, cố gắng thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính, góp phần vào thắng lợi của công cuộc trường kỳ kháng chiến. Đồng thời, Người thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam gửi lời chào thân ái tới các dân tộc anh em châu Á, tới nhân dân Pháp, tới dân tộc anh em các thuộc địa Pháp.

Người còn viết Thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Gửi Việt Mỹ ái hữu hội, Thư gửi Quân đội quốc gia Việt Nam nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ hai và viết bài Cán bộ và đời sống mới.

Trong Thư gửi đồng bào các tỉnh Việt Bắc, Người động viên đồng bào tiếp tục cố gắng để giữ vững danh hiệu vẻ vang là căn cứ cách mạng trước kia và căn cứ kháng chiến ngày nay.

Trong thư Gửi Việt Mỹ ái hữu hội, Người viết:

"Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật, và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc đấu tranh của chúng ta chống thực dân phản động Pháp, giành thống nhất và độc lập".

Trong Thư gửi Quân đội quốc gia Việt Nam, Người khen ngợi tinh thần yêu nước, dũng cảm, hy sinh và những chiến công của quân đội trong hai năm qua, căn dặn cán bộ và chiến sĩ những việc cần phải làm "để khỏi phụ lòng tin cậy của Chính phủ, của đồng bào và để trở nên một quân đội tất thắng".

Bài Cán bộ và đời sống mới nêu rõ: Cán bộ muốn làm việc, muốn được dân tin, dân phục, dân yêu thì phải "tự mình làm đúng đời sống mới, nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.200-211.

- Báo Vệ quốc quân, số 13, ngày 2-9-1947.

- Báo Sự thật, số 88, ngày 2-9-1947.

Tháng 9, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78/SL, ấn định số lượng uỷ viên và cách chỉ định các uỷ viên trong Uỷ ban kháng chiến khu.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 4

Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp ông Phạm Khắc Hoè. Người hoan nghênh việc ông Hoè đã thoát ra được vùng tự do tham gia kháng chiến.

Tối, trước khi đi ngủ, trong câu chuyện thân mật, Người hỏi ông Hoè:

- Cái gì đã làm cho chú cương quyết đi ra vùng tự do tham gia kháng chiến?

Nghe ông Hoè trả lời: yếu tố quyết định là hình ảnh và uy tín của Người, Người không đồng ý và nói:

- Yếu tố quyết định nằm ngay trong bản thân chú. Đó là lòng yêu nước của chú.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 79/SL và Sắc lệnh số 80/SL, cử hai uỷ viên vào Uỷ ban kháng chiến Khu XIV.

- Phạm Khắc Hoè: Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Hà Nội, 1983, tr. 277.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 81/SL, bổ nhiệm ông Khuất Duy Tiến làm Trưởng phòng Dân quân thuộc Bộ Quốc phòng.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 12

Tại Đại Từ (Thái Nguyên), Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn về kế hoạch đề phòng cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, vấn đề tuyên dương công trạng quân nhân, việc hưởng ứng cuộc vận động "Mùa đông binh sĩ", vấn đề ân xá ân giảm trong dịp Quốc khánh và một số vấn đề liên quan đến Bộ Thương binh, Bộ Canh nông.

Trong ngày, Người viết Thư gửi đồng bào Liên khu III, biểu dương những thành tích mà quân dân trong Liên khu đã đạt được và căn dặn:

"Cũng như đường xa, đi đến nơi thì thường nhọc mệt, sự nghiệp kháng chiến gần đến lúc thành công thì càng nhiều nỗi gian nan.

Vậy nếu chúng ta đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt chẽ thêm, đã tiến bộ càng phải cố gắng mãi, chớ thấy thất bại mà nản, chớ thấy đắc thắng mà kiêu. Phải luôn luôn cẩn thận, luôn luôn cố gắng. Trước mặt trận cũng như ở hậu phương, muôn người như một, đều cùng quyết tâm làm trọn nhiệm vụ kháng chiến cứu quốc của mình. Như thế thì kháng chiến nhất định thành công cũng như Cách mạng Tháng Tám thành công vậy".

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao, hồ sơ 68 (1945-1954), t. 2.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.212.

Tháng 9, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng sáu Bộ trưởng họp Hội đồng Liên bộ để bàn tiếp về chế độ doanh nghiệp nhà nước, chính sách tài chính và một số vấn đề chưa được thảo luận tại phiên họp Hội đồng Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 173.

Tháng 9, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 82/SL, về việc sửa đổi điều 7 trong Sắc lệnh số 29b/SL ngày 16-3-1947 thiết lập Ngoại thương Cục.

- Sắc lệnh số 83/SL, về việc thành lập Viện Huân chương trực thuộc Phủ Chủ tịch.

- Sắc lệnh số 86/SL, về việc thành lập Việt Nam Quốc gia Ngân hàng.

- Sắc lệnh số 87/SL, về việc đặt một khoản phụ cấp đặc biệt tạm thời cho tất cả các nhân viên giúp việc Chính phủ đã được lĩnh sinh hoạt phí hay lương bổng hằng tháng.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư trả lời ông Lam Sơn 1) báo tin Người gửi biếu đồng bào trong vùng tạm chiếm Khu VII 2) một khăn mùi xoa thêu do các cháu nhi đồng Nghệ An tặng Người.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 213.

Tháng 9, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 88/SL, ấn định các hình thức thưởng cho những gia đình có ba con trở lên tham gia quân đội.

Cùng ngày, Người gửi cho bác sĩ Trần Hữu Tước bức thư sau đây:

"Cher 3) chú Tước,

Đã lâu không gặp, lại không được tin tức, nhớ chú lắm. Hỏi thăm, người thì nói chú khoẻ, kẻ thì nói chú yếu, nhưng họ cũng chỉ nghe nói thôi. Mong chú cho tôi biết tin.

Nói chú biết, chú mừng: Tôi vẫn mạnh khoẻ luôn. Mấy anh em cùng về một lần với chúng ta, chú Nghĩa và chú Huân 4) làm việc rất hăng hái và đắc lực, đã gắng sức rất nhiều trong công việc kháng chiến".

Chào thân ái và quyết thắng

HỒ CHÍ MINH".

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại gia đình bác sĩ Trần Hữu Tước.

Tháng 9, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ nhân kỷ niệm tròn hai năm ngày Nam Bộ kháng chiến8. Người biểu dương đồng bào và chiến sĩ miền Nam đã chấp nhận hy sinh, phải chịu nhiều gian khổ, mà "lòng yêu nước ngày càng nồng nàn, chí dũng cảm ngày càng bền chặt, sức chiến đấu ngày càng tăng gia, chí quyết thắng ngày càng vững chắc". Nhân dịp này, Người kêu gọi những người lầm đường lạc lối hãy mau tỉnh ngộ trở về với Tổ quốc.

Tối, Người chủ toạ phiên họp bất thường của Hội đồng Chính phủ bàn về chương trình hành động kỷ niệm ngày Nam Bộ kháng chiến (23-9) và trao đổi ý kiến về thái độ đối với Vĩnh Thuỵ (Bảo Đại).

Sau khi nghe ý kiến của nhiều đại biểu, Người kết luận: "... Đối với thực dân Pháp xâm lược, chúng ta phải đánh. Đối với nhân dân các giới, ta phải tìm cách giải thích cho họ rõ. Với Vĩnh Thuỵ, ta vừa giải thích, đồng thời cần có những lời khuyên bảo ông ta".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.214-215.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Võ Liêm Sơn - Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ bức thư sau đây:

"Thưa cụ,

Uỷ ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ chỉ quyên vải vóc hoặc chăn áo. Nhưng tôi không biết may, không có vải, mà áo cũng chỉ có hai bộ đã cũ. Vậy tôi xin quyên một tháng lương là 1.000 đồng 5), nhờ Cụ mua giùm vật liệu và may giùm mấy chiếc chăn, áo cho chiến sĩ, gọi tỏ chút lòng thành.

Đồng bào ta đã giúp nhiều lần. Lần này, mặc dầu hoàn cảnh khó khăn, nhưng tôi rất mong đồng bào cũng ra sức giúp, để cho chiến sĩ khỏi lạnh lùng và đủ ấm áp để ra sức xung phong diệt địch.

Chúc Cụ mạnh khoẻ, chúc Uỷ ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ thành công.

Chào thân ái và quyết thắng.

 

Ngày 25 tháng 9 năm 1947

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 26

Trong thư gửi đồng bào xã N.L., huyện Hưng Nhân (nay thuộc Hưng Hà) tỉnh Thái Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi về thành tích xoá nạn mù chữ của xã và khuyên đồng bào trong xã cố gắng học thêm cho tiến bộ nữa. Người mong các xã khác trong huyện và trong tỉnh đều cố gắng để theo kịp xã N.L.

- Báo Cứu quốc, số 712, ngày 26-9-1947.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.216.

Tháng 9, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhi đồng cả nước nhân dịp Tết Trung thu kháng chiến đầu tiên. "Thấy các cháu không được ăn Tết, lòng Bác rất áy náy, và thêm căm giận bọn thực dân phản động Pháp". "Bác hứa với các cháu: các bác, các chú, toàn cả đồng bào, sẽ ra sức tranh đấu, để sớm đuổi bọn thực dân phản động, để trường kỳ kháng chiến sớm thắng lợi, thống nhất độc lập sớm thành công, để các cháu được ăn Tết Trung thu vui vẻ như năm kia, năm ngoái".

- Báo Cứu quốc, số 713, ngày 27-9-1947.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.217-218.

Tháng 9, ngày 30

Tại Chợ Chu (Định Hoá, Thái Nguyên), sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với các ông Nguyễn Lương Bằng, Lê Văn Hiến, sau đó mời cơm hai người.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 90/SL, quy định quan hệ giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy.

- Sắc lệnh số 237/SL/M, về việc cử Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính tỉnh Ninh Bình.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 184.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của ông S. Êli Mâysi (S. Elie Maissie) - nhà báo Mỹ, đồng thời là phóng viên Hãng International News Service, về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, mối quan hệ với Chính phủ Pháp, vai trò của Vĩnh Thuỵ...

Về chính sách đối ngoại của nước Việt Nam, Người tuyên bố: "Làm bạn với tất mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".

- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.219-221.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Cao Triều Phát, đại biểu Quốc hội, Cố vấn Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam Nam Bộ, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương "Cao Đài cứu quốc 12 phái hợp nhất".

Trong thư "gửi đến người bạn già ở miền Nam", Người viết: "Dù xa cách, Chính phủ và tôi lúc nào cũng nghĩ đến công nghiệp 6) của Ông... Với sự đồng tâm nhất trí của toàn thể quốc dân, ngày vinh quang của đất nước sẽ gần đây... Chúc Ông mạnh khoẻ.

Xin gửi tặng Ông bức ảnh của tôi gọi là vật kỷ niệm mọn".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Tháng 10, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 91/SL, quy định Uỷ ban kháng chiến và Uỷ ban hành chính các cấp (tỉnh, huyện, phủ hay châu, xã) "nay hợp lại thành Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính, viết tắt là UBKCKHC".

Bản Sắc lệnh còn quy định cụ thể thành phần Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính mỗi cấp, việc bổ nhiệm hoặc thay thế các thành viên trong Uỷ ban, quan hệ giữa Uỷ ban các cấp.

Cùng ngày, Người gửi điện trả lời chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Sài Gòn 7) nói rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam vẫn như trước, không thay đổi, "ấy là nền độc lập và sự thống nhất của nước Việt Nam, ấy là tinh thần hữu hảo, sự tin cậy và sự hợp tác giữa hai dân tộc Việt - Pháp".

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 222.

Tháng 10, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 92/SL, cử Đổng lý sự vụ, Phó đổng lý sự vụ, Đổng lý văn phòng Bộ Thương binh, Cựu binh.

- Sắc lệnh số 93/SL, cử các uỷ viên hành chính và uỷ viên nhân dân của Uỷ ban kháng chiến hành chính Chiến khu I.

- Sắc lệnh số 94/SL, cử các uỷ viên hành chính và uỷ viên nhân dân của Uỷ ban kháng chiến hành chính Chiến khu II.

- Sắc lệnh số 95/SL, cử các uỷ viên hành chính và uỷ viên nhân dân của Uỷ ban kháng chiến hành chính Chiến khu III.

- Sắc lệnh số 96/SL, cử các uỷ viên hành chính và uỷ viên nhân dân của Uỷ ban kháng chiến hành chính Chiến khu X.

- Sắc lệnh số 97/SL, cử các uỷ viên hành chính và uỷ viên nhân dân của Uỷ ban kháng chiến hành chính Chiến khu XI.

- Sắc lệnh số 98/SL, cử các uỷ viên hành chính và uỷ viên nhân dân của Uỷ ban kháng chiến hành chính Chiến khu XII.

- Sắc lệnh số 99/SL, cử Phó phòng Dân quân (Bộ Quốc phòng).

- Sắc lệnh số 100/SL, cử người vào Ban phụ trách Tây Nguyên.

- Sắc lệnh số 101/SL, về việc thành lập Sở Thương binh, Cựu binh khu và Ty Thương binh, Cựu binh tỉnh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 8

Sau khi được tin địch tiến công lên Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi bộ đội và nhân dân ra sức tiêu diệt địch.

Người vạch trần ý đồ của địch là muốn hội quân ở Bắc Cạn, tạo thành một cái ô bọc lấy Việt Bắc rồi khép chặt vòng vây, dưới đánh lên, trên đánh xuống, để tiêu diệt chủ lực ta và phá cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Người chỉ rõ: Chúng mạnh về hai gọng kìm. Gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành ô rách.

- Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1974, t. 1, tr. 317.

- Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, 1995, tr. 309.

Tháng 10, khoảng ngày 8 đến ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Những điều cần chú ý cho cán bộ chỉ huy cao cấp quân đội, căn dặn cách ứng xử của cán bộ đối với người, đối với việc, đối với vật, đối với địch:

"Muốn được người, được việc, được vật, được địch phải sáng suốt, chân tình, khôn khéo.

- Gắng sức học tập, khuyên nhau học tập.

- Khu này học kinh nghiệm khu kia.

- Chí công vô tư, đối với việc phải sáng suốt, đối với vật không tham lam, làm kiểu mẫu cho bộ đội, cho nhân dân, phải có kỷ luật. Người cán bộ phải chú ý chớ sợ khó khăn nguy hiểm...".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bộ Quốc phòng.

Tháng 10, trước ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ bế mạc lớp bổ túc cán bộ quân sự trung cấp của quân đội. Nói chuyện trong buổi lễ, Người căn dặn: Người cán bộ muốn tốt phải có đạo đức cách mạng. Quân sự giỏi song nếu không có đạo đức cách mạng thì khó thành công. Muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều: Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm. Ngoài ra, phải biết tự phê bình và phê bình, phải thật thà đoàn kết và biết giữ kỷ luật.

- Báo Vệ quốc quân, số 15, ngày 10-10-1947.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.223-225.

Tháng 10, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định truy tặng Huân chương Kháng chiến cho liệt sĩ Trần Bình, điệp báo viên Công an Hà Nội.

- Bản chụp quyết định, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Khoảng đầu tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh chuyển cơ quan ngay sau khi nhận được thư "hoả tốc" của ông Võ Nguyên Giáp do một chiến sĩ giao thông phi ngựa đưa đến, báo tin địch sẽ nhảy dù xuống một số địa điểm.

Khoảng 3 giờ sáng hôm sau, Người cùng các chiến sĩ bảo vệ, nhân viên, với tám gánh "hàng" lại ra đi.

- Theo Bác đi kháng chiến, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980, tr. 139-141.

Tháng 10, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ cuộc họp của Đảng đoàn Chính phủ để thảo luận kế hoạch chuẩn bị đối phó cuộc tấn công của Pháp, vấn đề di chuyển cơ quan Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 190.

Tháng 10, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về ở và làm việc tại xã Liên Minh, huyện Võ Nhai (Thái Nguyên).

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 263/SL-M, cử ông Phạm Văn Đồng làm đặc phái viên của Chính phủ tại Nam Trung Bộ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi hai lão du kích Kiến An, khen ngợi: "Hai cụ thật xứng đáng với tổ tiên oanh liệt của ta, các phụ lão đời Trần đời Lê, chẳng những kêu gọi con cháu, mà tự mình hăng hái tay chống gậy, tay cầm dao giết giặc cứu nước".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 226.

Tháng 10, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 264-SL/M, bổ nhiệm ông Hoàng Văn Hoan làm Đặc phái viên Chính phủ tại Chiến khu IV.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi những người Nam Bộ trong quân đội Pháp, khuyên họ "lúc còn ở trong bộ đội địch, thì cần phải tìm đủ mọi cách để giúp quân đội ta. Khi có cơ hội thì lập tức chạy qua với bộ đội ta. Chính phủ và đồng bào luôn luôn sẵn sàng hoan nghênh các bạn".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 227.

Tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc 8), ký bút danh X.Y.Z.

Cuốn sách gồm  sáu phần:

1. Phê bình và sửa chữa: nêu lên tầm quan trọng của việc tự phê bình và phê bình. Cách thức tiến hành. Những căn bệnh cần phải sửa chữa trong lối làm việc của Đảng.

2. Mấy điều kinh nghiệm: nêu lên sáu bài học lớn:

- Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong.

- Có chính sách đúng đồng thời phải có cách làm đúng.

- Phải nghiên cứu kinh nghiệm đến tận gốc.

- Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái.

- Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

- Sát quần chúng, hợp quần chúng.

3. Tư cách và đạo đức cách mạng: nêu 12 tiêu chuẩn của một đảng chân chính cách mạng; nhiệm vụ của đảng viên và cán bộ; năm điều nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; những khuyết điểm cần sửa chữa và cách sửa chữa.

4. Vấn đề cán bộ: công tác huấn luyện cán bộ; bồi dưỡng và sử dụng cán bộ; tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ; chính sách cán bộ.

5. Cách lãnh đạo.

6. Chống thói ba hoa.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.229-306.

Tháng 11, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102/SL, cho phép phát hành tại Nam Bộ các tín phiếu loại một đồng, năm đồng, mười đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng, một trăm đồng, năm trăm đồng, có giá trị như giấy bạc Việt Nam. Tổng số giá trị tín phiếu phát hành không được quá hai mươi triệu đồng.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo về tình hình thế giới, tình hình nước Pháp, tình hình sau cuộc tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc và bàn về kế hoạch công tác quân sự, tài chính...

Theo đề nghị của Người, Chính phủ đã cử ông Phan Kế Toại giữ chức quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự họp Hội đồng Chính phủ.

Trong ngày, Người viết Thư gửi ông giám đốc và toàn thể nam nữ giáo viên bình dân học vụ Khu III, khen ngợi thành tích xoá nạn mù chữ trong toàn khu. Người mong "ông giám đốc, các giáo viên và các cơ quan đoàn thể cố gắng làm thế nào để chừng tháng 6 năm sau toàn thể nhân dân Khu III từ 8 tuổi trở lên đều biết chữ".

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.307-308.

Tháng 11, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, Thái Bình, khen ngợi về thành tích toàn dân trong xã từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ. Người căn dặn: "Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt,... đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh. Đồng thời cố gắng tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 309.

Tháng 11, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký giấy uỷ nhiệm cho các ông Vũ Đình Hoè, Trần Đăng Khoa, Trần Huy Liệu đi kinh lý Khu I và Khu XII.

- Bản chụp giấy uỷ nhiệm, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại xã Phú Bình, huyện Định Hoá (Thái Nguyên).

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 265-SL/M, sáp nhập tỉnh Quảng Yên (gồm cả khu vực Hồng Gai) vào Chiến khu XII về mọi phương diện kháng chiến, hành chính và quân sự.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại Khuôn Đào, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 84.

Tháng 12, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại Khuổi Tẩu, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 612/MDB, về việc khen thưởng các Chủ tịch và Uỷ viên kháng chiến kiêm hành chính cấp xã, nhân kỷ niệm một năm Ngày toàn quốc kháng chiến.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và trả lời phỏng vấn của các nhà báo Việt Nam và nước ngoài.

Về cuộc gặp gỡ giữa Vĩnh Thuỵ và Cao uỷ Pháp Bôlaéc 9), trong tuyên bố của Người có đoạn: "Chính phủ và nhân dân ta rất mong cố vấn Vĩnh Thuỵ không có những hành động trái ngược với những lời cố vấn đã thề trước Tổ quốc và trước đồng bào, trái với nguyện vọng của dân tộc. Dù sao vận mệnh của dân tộc sẽ không vì một người, hoặc một nhóm người mà thay đổi".

Cùng ngày, Người điện gửi Giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ Thiên Chúa giáng sinh. Người chúc Giám mục "mọi sự lành" để phụng sự Đức Chúa, để lãnh đạo đồng bào Công giáo tham gia kháng chiến và nhờ chuyển lời chúc phúc của Người tới toàn thể đồng bào Công giáo.

- Báo Sự thật, số 88, ngày 19-12-1947.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.310-312.

Tháng 12, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi Chính phủ Cao Miên giải phóng 10) nhiệt liệt hoan nghênh việc thành lập Uỷ ban Giải phóng Việt - Miên - Lào nhằm mục đích theo đuổi đến cùng cuộc chiến đấu chung chống đế quốc và thực dân Pháp.

Bức thư có đoạn:

"Tôi tin chắc rằng các dân tộc ta, đã có sẵn một tinh thần đấu tranh cao, lại gắng đi tới một sự cộng tác chặt chẽ thì thắng lợi thế nào cũng về ta, và chúng ta nhất định sẽ giành được độc lập cho đất nước".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 19

Nhân kỷ niệm một năm Ngày toàn quốc kháng chiến9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước.

Người kêu gọi các tầng lớp đồng bào, chiến sĩ cả nước hãy ra sức phấn đấu, đóng góp cho kháng chiến, và trịnh trọng tuyên bố:

"Nhân dân Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp, song nhân dân Việt Nam quyết không đầu hàng, quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ một lần nữa.

Và Chính phủ Hồ Chí Minh thề quyết lãnh đạo nhân dân và quân đội chiến đấu đến cùng, để phá tan xiềng xích của bọn thực dân, để tranh lại quyền thống nhất và độc lập. Chính phủ Hồ Chí Minh quyết làm trọn cái nhiệm vụ vẻ vang mà quốc dân đã giao cho, và quyết không phụ lòng tin cậy mà đồng bào đã đặt vào Chính phủ".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết sáu bức thư: Thư gửi cán bộ Khu I; Thư gửi đồng bào và tướng sĩ Khu II; Thư gửi đồng bào và chiến sĩ Khu III; Thư gửi đồng bào và chiến sĩ Khu X; Thư gửi đồng bào, vệ quốc quân, dân quân du kích, cán bộ xung phong cảm tử Khu XI; Thư gửi đồng bào và tướng sĩ Khu XII và bài Kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam10.

Trong các bức thư, ngoài nội dung biểu dương quân dân các vùng trong một năm kháng chiến vừa qua đã phát huy tinh thần khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, hăng hái chiến đấu, lập nhiều chiến công, Người đã thẳng thắn vạch rõ những khuyết điểm cụ thể của từng vùng, phân tích nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm cho "năm kháng chiến mới".

Trong bài Kỷ niệm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người nêu lên sự trưởng thành của lực lượng vũ trang Việt Nam từ Giải phóng quân đến Vệ quốc quân, và căn dặn: "Vệ quốc quân, dân quân du kích phải luôn luôn phát triển cái kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí quật cường tất thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung của Giải phóng quân".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký thông tư gửi các Bộ "Về việc cử các nhân viên làm việc đắc lực để khen thưởng".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.313-331.

- Bản chụp thông tư, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, khoảng ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời sáu câu hỏi của các nhà báo về những kinh nghiệm trong một năm kháng chiến, về triển vọng cuộc kháng chiến năm tới, về cuộc tấn công mùa đông của địch...

Trả lời câu hỏi: "Theo Chủ tịch, kết quả cuộc hành quân mùa đông của địch sẽ thế nào?", Người khẳng định:

"Cũng như các cuộc hành quân khác, kết quả địch sẽ thất bại, vì:

a) Địch chỉ hoạt động được mấy tháng. Sau mùa mưa thì chúng hết thiên thời.

b) Việt Bắc địa thế hiểm trở, quân địch không có địa lợi.

c) Địch càng lan rộng thì người càng thiếu, sức người càng mỏng, chúng dễ bị tiêu diệt, chúng càng đánh lan ra, càng giở thói tham ô tàn nhẫn, càng làm cho đồng bào ta, miền ngược cũng như miền xuôi, đoàn kết chặt chẽ chống lại chúng, thế là địch không có nhân hoà.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.327-328.

Tháng 12, ngày 23

Lời kêu gọi tướng sĩ Vệ quốc quân, dân quân du kích nhân cuộc vận động luyện bộ đội lập chiến công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên báo Vệ quốc quân, số 16.

Người nêu rõ ý nghĩa của cuộc vận động luyện bộ đội, lập chiến công do Bộ Tổng chỉ huy quân đội phát động và kêu gọi cán bộ chiến sĩ phải ra sức thi đua diệt giặc lập công.

- Báo Vệ quốc quân, số 16, ngày 23-12-1947.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.332.

Tháng 12, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nôen 1947.

Bức thư có đoạn: "Chúng ta toàn dân, giáo cũng như lương, đoàn kết kháng chiến để Tổ quốc được độc lập, tôn giáo được tự do. Đức Chúa phù hộ chúng ta, chúng ta chắc sẽ thắng lợi.

Trong cuộc kháng chiến, nhiều đồng bào công giáo đã hăng hái hy sinh. Tôi đề nghị toàn thể đồng bào công giáo trong kỳ lễ Nôen này cầu nguyện cho linh hồn các chiến sĩ giáo và lương đã bỏ mình vì nước và cầu nguyện cho Tổ quốc ta được thắng lợi".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 333.

Cuối năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở và làm việc tại bản Ca, Bình Trung, Chợ Đồn (Bắc Cạn).

- Tài liệu của Phòng Di tích, Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Cuối năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Việt Bắc anh dũng 11) (ký bút danh Tân Sinh).

Cuốn sách vạch rõ những thất bại của Pháp trong cuộc phiêu lưu quân sự lên Việt Bắc, khái quát những nguyên nhân quyết định thắng lợi và dự báo những âm mưu mới của địch.

Tác giả nhắc nhở mọi người chớ kiêu căng, chủ quan khinh địch, mà phải luôn luôn chuẩn bị, cẩn thận đề phòng, phải ra sức sửa chữa những khuyết điểm và phát huy các ưu điểm, làm trọn bổn phận công dân.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.339-368.

Cuối năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp giáo sư Hồ Đắc Di sau khi Trường đại học Y ở Chiêm Hoá (Tuyên Quang) bị quân Pháp phá hủy.

Người nói: Nước nhà đang kháng chiến, còn gặp nhiều khó khăn, các chú phải "tự lực cánh sinh", bàn bạc với nhau, tự tìm cách giải quyết. Chính phủ cũng sẽ cố gắng giúp đỡ.

- Báo Sức khoẻ và đời sống, ngày 13-5-2000.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông Phạm Ngọc Thạch làm phái viên Chính phủ đi gặp lãnh đạo Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ để vận động chính quyền các nước này giúp Việt Nam đặt cơ quan đại diện Chính phủ và tổ chức Phòng thông tin 12).

- Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam (1945 - 1995), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 132.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi tặng ba cụ lão du kích Cao Bằng bốn câu thơ lục bát:

Tuổi cao chí khí càng cao,

Múa gươm giết giặc ào ào gió thu.

Sẵn sàng tiêu diệt quân thù,

Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.334.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc và bài Cảnh khuya. Nguyên văn hai bài thơ như sau:

CẢNH RỪNG VIỆT BẮC

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay,

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

Kháng chiến thành công ta trở lại,

Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

CẢNH KHUYA

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.335, 336.

 

-----------------------

Chú thích

1) Hưởng ứng phong trào ủng hộ thương binh liệt sĩ, ông Lam Sơn, thay mặt một số đồng bào trong vùng tạm chiếm Khu VII đã gửi số tiền 10.000 đồng để mua một cái cúc của chiếc áo lụa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng cho Ngày thương binh liệt sĩ. Được biết Liên hiệp công đoàn Bắc Cạn đã mua chiếc áo đó và đã tặng lại cho ông Cao Triều Phát - đại biểu đồng bào Cao Đài Nam Bộ, nên Người đã gửi lá thư trên (B.T).

2) Khu VII gồm các tỉnh Bà Rịa,  Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn và Sài Gòn (cũ) (B.T).

3) Tiếng Pháp có nghĩa là "thân", "thân ái" (B.T).

4) Trần Đại Nghĩa, Võ Quý Huân - những nhà trí thức ở Pháp đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước tham gia kháng chiến sau khi Người dự Hội nghị Phôngtennơblô (B.T).

5) Tiền lưu hành trong thời kỳ kháng chiến (B.T).

6)  Sự nghiệp chung, công việc chung (B.T).

7) Chi bộ Đảng Xã hội Pháp ở Sài Gòn có gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức điện yêu cầu Người cho biết lập trường của Chính phủ Việt Nam sau khi thành lập Chính phủ mới.

8) Cuốn sách do Nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên năm 1948 (B.T).

9) Ngày 6 và 7-12-1947, Vĩnh Thuỵ đã có cuộc gặp gỡ với Cao uỷ Pháp Bôlaéc ở Vịnh Hạ Long (B.T).

10) Chủ tịch nước Cao Miên (Campuchia) giải phóng, gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh bức thư báo tin Uỷ ban Giải phóng Việt - Miên - Lào đã được thành lập nhằm mục đích chiến đấu chống đế quốc và thực dân Pháp đang âm mưu đặt lại nền thống trị của chúng ở Đông Dương. Ông tin tưởng vào sự thắng lợi cuối cùng của nhân dân Campuchia và kêu gọi sự giúp đỡ của nhân dân Việt Nam. Trên đây là thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh (B.T).

11) Cuốn sách do Tổng bộ Việt Minh xuất bản lần đầu tiên năm 1948 (B.T).

12) Theo cuốn sách Ngoại giao Việt Nam (1945-1995), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, với sự giúp đỡ của Chính phủ và các đoàn thể sở tại, có sự phối hợp tốt với các cơ quan đại diện, ta đã cử đại biểu đi tham gia 12 hội nghị quốc tế và khu vực, đáng chú ý là Hội nghị liên Á tháng 4-1947 tổ chức tại Niu Đêli (Ấn Độ), Hội nghị ESCAP (Hội đồng Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương) tháng 1-1949 tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan), Hội nghị Nhân dân thế giới đấu tranh cho hoà bình tổ chức tại Pari (Pháp) tháng 4-1949, Hội nghị Liên hiệp công đoàn thế giới tổ chức tại Milan (Italia) tháng 6-1949. Từ năm 1947 đến năm 1949, ta tổ chức được 12 phòng thông tin ở Pari, Luân Đôn, Niu Oóc, Praha, Niu Đêli, Rănggun, Băng Cốc, Xingapo, Hồng Kông, Tân Đảo. Với sự hỗ trợ của các tổ chức dân chủ, các hội ái hữu sở tại và Việt kiều, các phòng thông tin của ta đã cung cấp ra thế giới tin tức và hình ảnh cuộc kháng chiến của ta, đường lối chính sách của ta (B.T).

* Năm 1948 - Từ tháng 01 đến tháng 6

Tháng 1, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 103/SL, bãi bỏ chức Tổng Thanh tra lao động, Giám đốc Ban Thanh tra - hành chính Bộ Lao động.

- Sắc lệnh số 104/SL, ấn định các nguyên tắc căn bản của "Doanh nghiệp quốc gia".

- Sắc lệnh số 105/SL, cử Phó Giám đốc Nha khẩn hoang, di dân.

- Sắc lệnh số 106/SL, cử uỷ viên Uỷ ban kháng chiến Khu III thay bác sĩ Nguyễn Văn Vinh từ trần.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 14

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với một số vị ủy viên Trung ương về những vấn đề sẽ đưa ra thảo luận tại Hội nghị Trung ương mở rộng.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 254.

Tháng 1, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (mở rộng) để đánh giá những chuyển biến trong so sánh lực lượng giữa ta - địch và đề ra những nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh tế nhằm đẩy mạnh kháng chiến.

Nhớ lại kỷ niệm về kỳ họp này, ông Lê Văn Hiến ghi trong nhật ký:

"Buổi sáng, Cụ cặm cụi chế cà phê và cho mỗi người một cốc. Ấm bụng rồi, cùng với Cụ và các anh em đi đến địa điểm hội nghị. Trong một khoảng rừng khác, một ngôi nhà của đồng bào Mán, đã chật cả người. Ai nấy đều ra đón chào Cụ. Anh em gặp nhau sau những ngày vất vả vì cuộc tấn công của địch, vui mừng quá. Cụ bắt tay mọi người, rồi câu chuyện thân mật đậm đà kéo dài chung quanh Cụ trong lúc gió rừng hắt vào lạnh thấu xương".

Trong ngày, Người viết thư gửi ông Đinh Công Phủ 1). Bức thư có đoạn:

"Tôi rất vui lòng biết rằng: Gần đây, với sự chỉ đạo của Cụ, và sự cố gắng của anh em cán bộ và toàn thể đồng bào, công việc kháng chiến ở khu ta khá tiến bộ. Đánh được trận, giết khá địch, cướp khá súng.

Tôi gửi biếu Cụ một chiếc áo trấn thủ. Áo này là của đồng bào Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây biếu tôi. Cụ mặc ấm, cũng như tôi mặc ấm".

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 135.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 255.

Tháng 1, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển Hội nghị Trung ương (mở rộng). Cuộc họp kéo dài đến tận 12 giờ đêm.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

Tháng 1, từ ngày 17 đến ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn một số vấn đề về nhân sự, việc phong quân hàm cho một số tướng lĩnh, việc khen thưởng, vấn đề tài chính, ngân sách năm 1948, vấn đề nông nghiệp và các vấn đề về giao thông, giáo dục, tư pháp, y tế.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 107/SL, bổ nhiệm ông Lê Thiết Hùng làm Tổng Thanh tra và ông Trần Tử Bình làm Phó Tổng Thanh tra quân đội toàn quốc.

- Sắc lệnh số 108/SL, bổ nhiệm ông Trần Hiệu làm Cục trưởng Cục Tình báo thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Sắc lệnh số 109/SL, bổ nhiệm ông Lê Thiết Hùng - Tổng Thanh tra quân đội toàn quốc, kiêm chức Hiệu trưởng Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn.

- Sắc lệnh số 110/SL, phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp - Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ, kể từ ngày 20-1-1948.

- Sắc lệnh số 111/SL, phong quân hàm Thiếu tướng kể từ ngày 1-1-1948 cho các ông Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội quốc gia Việt Nam; Nguyễn Sơn - Khu trưởng Chiến khu IV; Hoàng Sâm - Khu trưởng Chiến khu II; Chu Văn Tấn - Khu trưởng Chiến khu I.

- Sắc lệnh số 112/SL, phong quân hàm Thiếu tướng kể từ ngày 1-1-1948 cho các ông Trần Tử Bình - Trưởng phòng kiểm tra cán bộ; Văn Tiến Dũng - Cục trưởng Cục Chính trị; Lê Hiến Mai - Chính uỷ viên Khu II.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 1, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 113/SL, quy định tổ chức, nhiệm vụ của Cục Quân huấn trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Sắc lệnh số 114/SL, bổ nhiệm ông Hoàng Đạo Thuý - nguyên Hiệu trưởng Trường Lục quân trung học Trần Quốc Tuấn giữ chức Cục trưởng Cục Quân huấn thuộc Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Sắc lệnh số 115/SL, phong quân hàm Trung tướng cho ông Nguyễn Bình - Khu trưởng Chiến khu VII kiêm Uỷ viên quân sự Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 116/SL, đặt hệ thống quân hàm dành cho các nhân viên thuộc Bộ Quốc phòng không phải là quân nhân nhưng do nhiệm vụ có quan hệ trực tiếp thường xuyên với quân đội. Hệ thống quân hàm này có các cấp bậc từ hạ sĩ đến trung tướng.

- Sắc lệnh số 117/SL, phong quân hàm Thiếu tướng cho ông Trần Đại Nghĩa - Cục trưởng Cục Quân giới.

- Sắc lệnh số 118/SL, đổi Phòng Dân quân trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy thành Cục Dân quân.

- Sắc lệnh số 119/SL, đổi Phòng Kiểm tra trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy thành Cục Tổng Thanh tra Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Sắc lệnh số 120/SL, về việc hợp nhất các khu thành liên khu.

- Sắc lệnh số 121/SL, cử các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính miền Nam Trung Bộ.

- Sắc lệnh số 122/SL, về việc cử các Liên khu trưởng, Liên khu phó, Chính trị uỷ viên Liên khu của các Liên khu I, III, X và điều động một số cán bộ quân đội về nhận công tác tại Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Sắc lệnh số 123/SL, cử các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu X.

- Sắc lệnh số 124/SL, cử các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu I.

- Sắc lệnh số 125/SL, cử các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu III.

- Sắc lệnh số 126/SL, chính thức công nhận ông Lê Đình Thám làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Trung Bộ.

- Sắc lệnh số 127/SL, cử các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu IV.

- Sắc lệnh số 128/SL, chính thức công nhận ông Hồ Tùng Mậu làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu IV.

Cùng ngày, Người viết bức thư dưới đây gửi cụ Ưng Uý 2) ở Huế:

"Kính gửi cụ Ưng Uý tại Huế,

Trước hết, tôi xin gửi lời thăm sức khoẻ của cụ và quý quyến, xin chúc cụ được nhiều sức khoẻ. Sau đây, xin mời cụ tham gia kháng chiến để chúng ta tiếp tục sự nghiệp bỏ dở của các vị tiền bối Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân là đánh đuổi thực dân Pháp để giành độc lập cho dân tộc, cho Tổ quốc".

 

Việt Bắc, ngày 25-1-1948

HỒ CHÍ MINH"

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bác Hồ trong lòng dân Huế, Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 129.

Tháng 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Ty Giáo dục, các hiệu trưởng, giáo viên và học sinh Khu X.

Người khen ngợi những thành tích ngành giáo dục đã đạt được, biểu dương cán bộ, giáo viên và học sinh trong khu đã "có nhiều sáng kiến tham gia công cuộc kháng chiến", "đã áp dụng Học với Hành, đã thực hiện kháng chiến bằng văn hoá, văn hoá của kháng chiến", và cảm ơn nhân dân địa phương "mặc dầu những sự khó khăn thiếu thốn trong lúc này, đồng bào đã ra sức ủng hộ giáo dục, ủng hộ kháng chiến".

Người mong Khu X trở thành "một khu kiểu mẫu về mặt giáo dục cũng như về mặt kháng chiến".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 369-370.

Tháng 2, đầu tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thơ chúc Tết Mậu Tý tới đồng bào và chiến sĩ cả nước:

Năm Hợi đã đi qua

Năm Tý vừa bước tới.

Gửi lời chúc đồng bào,

Kháng chiến được thắng lợi;

Toàn dân đại đoàn kết,

Cả nước dốc một lòng;

Thống nhất chắc chắn được,

Độc lập quyết thành công.

- Hồ Chí Minh: Thơ chúc Tết, Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, 1986, tr. 10.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 337.

Tháng 2, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi ông Thứ trưởng Bộ Giao thông công chính Đặng Phúc Thông bức thư:

"Chú Thông,

Tết nhất năm nay hoãn thịt xôi,

Tết sau, thắng lợi sẽ đền bồi.

Áo bạn biếu tôi, tôi biếu chú.

Chú mang cho ấm, cũng như tôi.

 

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 129/SL, bổ sung điều 1 Sắc lệnh số 3/SL ngày 28-12-1946 về việc bầu lại Hội đồng nhân dân xã.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 7 (28 tháng Chạp âm lịch)

Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đại biểu Ban Thường trực Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy... dự bữa cơm liên hoan tất niên và đón mừng năm mới. Người kể những mẩu chuyện hồi hoạt động ở Trung Quốc, ở châu Âu, những lần bị giam và những kỷ niệm ngày Tết ở nơi đất khách quê người.

Bàn chuyện kháng chiến, Người nói: Trường kỳ kháng chiến thì phải trường kỳ động viên. Động viên tinh thần, động viên vật chất, động viên sức người, sức của để thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, làm cho thế và lực của ta mau chuyển biến.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 270.

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 134-135.

Tháng 2, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Uỷ ban nhân dân tỉnh và huyện của ba tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh và Bắc Giang, vạch rõ những khuyết điểm của các cấp chính quyền địa phương trên các mặt quân sự, hành chính, kinh tế, văn hoá, y tế.

Người yêu cầu các cán bộ "cần phải căn cứ vào những khuyết điểm nói trên và những khuyết điểm mình tự nhận thấy, mà lập tức lập một chương trình thiết thực, bệnh nào thuốc ấy để sửa chữa ngay những khuyết điểm đó", và nhấn mạnh: "Các đồng chí có thể làm, các đồng chí phải làm cho kỳ được".

- Văn kiện của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, 1970, tr. 35.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 371-373.

Tháng 2, trước ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết báo Cứu quốc Việt Bắc. Người chúc mừng mọi người năm mới đoàn kết tốt, công tác tốt.

- Tô Hoài: Chúng tôi làm báo Cứu quốc Việt Bắc. In trong Thời gian và nhân chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 100.

Tháng 2, trước ngày 10

Bài Thanh niên phải làm gì? của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 89.

Người chỉ rõ những nguyên nhân đã khiến Đoàn Thanh niên Việt Nam hoạt động còn kém hiệu quả, và nêu những phẩm chất đòi hỏi thanh niên phải phấn đấu để xứng đáng là chủ nhân tương lai của nước nhà.

- Báo Sự thật, số 89, số Tết Mậu Tý.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 374-375.

Tháng 2, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư (bằng tiếng Pháp) gửi báo Bạn chiến đấu 3), góp "một vài ý kiến nhỏ" về hình thức và nội dung để tờ báo có thể tranh thủ được cảm tình của độc giả.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 376-377.

Tháng 2, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 130/SL, bổ nhiệm ông Khuất Duy Tiến giữ chức Đổng lý sự vụ Bộ Nội vụ kể từ ngày 1-2-1948.

- Sắc lệnh số 131/SL, về việc phân hạng các cấp đại uý, thiếu tá, trung tá, đại tá và định lại thời hạn thăng cấp.

- Sắc lệnh số 132/SL, cử các ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Bình, Kha Vạng Cân, Ung Văn Khiêm... làm Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ; các ông Cao Triều Phát, Nguyễn Bá Sang làm cố vấn của Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 133/SL, chuẩn y ông Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch, các ông Phạm Ngọc Thuần và Nguyễn Bình làm Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 134/SL, cử các ông Nguyễn Hữu Tạo, Nông Ích Nhàn... làm Uỷ viên nhân dân trong Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu I.

- Sắc lệnh số 135/SL, cử các ông Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Xước... làm Uỷ viên nhân dân trong Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính Liên khu III.

- Sắc lệnh số 136/SL, sửa đổi Điều 3 của Sắc lệnh số 4/SL ngày 28-12-1946 về việc uỷ quyền cho Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính khu ân xá, ân giảm cho các tội phạm.

- Sắc lệnh số 137/SL, về việc thành lập Nha trung ương Hoa kiều vụ Việt Nam.

- Sắc lệnh 138/SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc trung ương Hoa kiều vụ Việt Nam.

- Sắc lệnh số 140/SL, về việc nhận tặng phẩm ủng hộ kháng chiến và việc sử dụng các thứ đó.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 20

Được tin Thủ tướng Ấn Độ Mahátma Găngđi từ trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn với Chính phủ, nhân dân Ấn Độ, gia đình Thủ tướng và báo tin "Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội, cũng như nhân dân và quân đội Việt Nam đã tổ chức mít tinh kỷ niệm Mahátma Găngđi... ca ngợi đạo đức, công lao và tinh thần yêu nước của nhà lãnh tụ vĩ đại Ấn Độ".

- Bút tích bức điện. Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

Tháng 2, ngày 24 (Rằm tháng Giêng Mậu Tý)

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi toàn thể bộ đội Khu II và Khu III về thành tích đã xoá nạn mù chữ.

Trong thư, Người nêu rõ: "Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch dốt nát tấn công ta về tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng". Người căn dặn: "Sự học hỏi là vô cùng... Một quân đội văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch".

Đêm, sau khi dự một cuộc hội nghị ở chốn "Yên ba thâm xứ", Người xuôi thuyền về căn cứ. Nhân trăng sáng cảnh đẹp, Người làm bài thơ chữ Hán: Nguyên tiêu:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,

Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự,

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Dịch thơ:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

          Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền 4).

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 378-380.

Tháng 2, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ bắt đầu từ 18 giờ 30 và kết thúc vào 2 giờ sáng hôm sau (1-3).

Hội đồng đã nghe Người đọc một báo cáo tổng hợp những tin tức thế giới có liên quan đến tình hình Việt Nam và thảo luận một số vấn đề quan trọng trong kế hoạch công tác năm 1948 của các bộ.

Sau khi tóm tắt những ý kiến đã trao đổi, Người yêu cầu các bộ nghiêm túc thực hiện các kế hoạch, và phải phát động một phong trào thi đua ở các bộ cũng như trong toàn dân.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 140/SL, thành lập Cục tiếp tế vận tải đặt trong Bộ Kinh tế và bãi bỏ Nha tiếp tế được thành lập theo Nghị định ngày 15-11-1946.

- Sắc lệnh số 141/SL, bổ nhiệm Cục trưởng Cục tiếp tế vận tải.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 283.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2

Trong tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những bức thư sau:

1. Thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc, nhấn mạnh trách nhiệm của người cán bộ tư pháp:

- Với tư cách là trí thức, cần phải "hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa" để nêu cao gương cho nhân dân.

- Với tư cách là viên chức của Chính phủ dân chủ cộng hoà, phải "tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ".

- Với tư cách là người phụ trách thi hành pháp luật, phải nêu cao tấm gương "Phụng công, thủ pháp 5), chí công vô tư" cho nhân dân noi theo.

2. Thư gửi ông Nguyễn Văn Luân - Trưởng khu bình dân học vụ Khu III, cảm ơn về những quà tặng của ông Luân, của giáo viên huyện Quỳnh Côi (nay thuộc huyện Quỳnh Phụ), Thái Bình và về những lời chúc mừng năm mới của tất cả những người làm công tác bình dân học vụ.

Người hứa sẽ có giải thưởng cho huyện nào đạt thành tích xuất sắc trong việc thanh toán nạn mù chữ năm 1948.

3. Thư gửi nhi đồng, đề nghị các cháu tổ chức những đội công tác Trần Quốc Toản.

Sau khi giải thích "Trần Quốc Toản là ai? Tổ chức thế nào, và để làm gì?", Người viết:

"Các cháu nên hiểu rằng: giúp đỡ đồng bào tức là tham gia kháng chiến. Và do đó, các cháu sẽ luyện tập cái tinh thần siêng năng và bác ái để sau này thành người công dân tốt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc".

4. Thư gửi các đồng chí trong phái đoàn ngoại giao trước khi đoàn lên đường 6).

Người căn dặn mọi người phải đem hết tinh thần và nghị lực khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết thương yêu nhau, cố gắng làm tròn nhiệm vụ để xứng đáng lòng tin cậy của anh em thanh niên, của đoàn thể và của đồng bào.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 381-382, 383, 386, 384-385.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Đoàn 29 (Trung đoàn Thủ đô) cảm ơn về thư báo cáo trận đánh thắng ngày 8-1-1948 và các chiến lợi phẩm của đơn vị gửi biếu. Người nhắc đơn vị cần rút kinh nghiệm trận đánh và phải luôn luôn gần gũi dân, phải làm cho dân mến, dân tin.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 56-57.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 391.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư riêng gửi Hoàng thân Xuphanuvông - Chủ tịch Chính phủ kháng chiến Lào, Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào Hắcxạt) 7).

- Báo Nhân dân, ngày 19-5-1998.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đại tá Nguyễn Dân, tức Frey - quốc tịch Áo, đảng viên cộng sản Pháp, theo đội quân lê dương sang tham chiến ở Đông Dương, đã bỏ sang hàng ngũ kháng chiến Việt Nam.

Tại "Dinh Chủ tịch" là một nhà sàn trong cánh rừng Việt Bắc, Người thân mật mời Nguyễn Dân hút thuốc lá, trao đổi về công việc, kể chuyện mình đã có dịp đến Viên - thủ đô nước Áo, quê hương của Nguyễn Dân.

- Pierre Sergent: Un étrange monsieur Frey (Một ông Phrây kỳ lạ), Fayard, 1982, tr. 269.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị thông tin tuyên truyền và báo chí toàn quốc.

Trong thư, Người chỉ rõ những khuyết điểm cụ thể của công tác thông tin tuyên truyền và báo chí của ta thời gian qua về mặt nhận thức, về nội dung, về cách làm... "Nói tóm lại: Các tờ báo chưa phản ánh được sinh hoạt của các tầng lớp dân chúng, chưa thành tờ báo của dân chúng". Người mong Hội nghị sẽ đề ra được một chương trình thiết thực và đầy đủ để "thông tin, tuyên truyền và báo chí làm tròn nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động, huấn luyện lãnh đạo nhân dân".

- Tạp chí Kinh nghiệm tuyên truyền, Sở Thông tin Nam Bộ, số 7, tháng 5-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 338-390.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị tình báo toàn quốc, biểu dương những cố gắng, sáng kiến, tiến bộ của các cán bộ và nhắc nhở: "Từ trên xuống dưới, mọi người phải cố gắng nghiên cứu học tập. Ta chớ giấu dốt, chớ xấu hổ, học hỏi lẫn nhau, học hỏi người ngoài. Tổ chức của ta còn trẻ, kinh nghiệm còn ít. Ta chỉ có một cách để theo kịp và đi quá người: là ra sức học hỏi".

- Tài liệu của Cục Tình báo, bản sao lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thiếp chúc sức khoẻ cụ Đinh Công Huy 8):

"Tôi gửi lời thân ái chúc Cụ cùng các cháu mạnh khoẻ và hỏi thăm tất cả đồng bào trên đó".

- Bút tích thiếp thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe các bộ trình bày chương trình hoạt động. Hội đồng làm việc suốt ngày, đến nửa đêm vẫn chưa hết, phải kéo sang ngày hôm sau.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 283.

Tháng 3, ngày 2

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

Chiều, Người bị sốt li bì.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 142/SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Tài chính.

- Sắc lệnh số 143/SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc quốc gia Ngân hàng Việt Nam.

- Sắc lệnh số 144/SL, về việc nghiêm cấm lạm sát trâu bò trong toàn cõi Việt Nam cho đến khi có lệnh mới.

- Sắc lệnh số 145/SL, giao nhiệm vụ cho Nha khẩn hoang di dân (thuộc Bộ Canh nông) tổ chức việc di dân đi khai thác và phục hồi những vùng đất hoang hoá thuộc sở hữu của Nhà nước.

- Sắc lệnh số 146/SL, quy định nhiệm vụ của Toà án quân sự, Toà án binh.

- Sắc lệnh số 147/SL, cho phép phát hành tại Nam Bộ và lưu hành trong toàn quốc giấy bạc Việt Nam loại mới một đồng, năm đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng một trăm đồng.

Cùng ngày, bài thơ chữ Hán: Tặng Bùi Công 9) của Người đăng trên báo Cứu quốc. Bài thơ như sau:

TẶNG BÙI CÔNG

Khán thư sơn điểu thê song hãn,

Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì,

Tiệp báo tần lai lao dịch mã,

Tư công tức cảnh tặng tân thi.

Dịch thơ:

TẶNG  CỤ BÙI

Xem sách, chim rừng vào cửa đậu,

Phê văn, hoa núi ghé nghiên soi.

Tin vui thắng trận dồn chân ngựa,

Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 284.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Báo Cứu quốc, ngày 2-3-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 542.

Tháng 3, ngày 3

Tuy còn bị mệt, phải nằm trên giường vì trận sốt đêm qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn yêu cầu những người đến thăm kể lại các vấn đề đã bàn trong cuộc họp Hội đồng Chính phủ.

Trong ngày, đọc thư của ông Nguyễn Xiển, Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam (viết ngày 22-2-1948) nhận xét về những khuyết điểm trong đạo đức và tác phong công tác của một số cán bộ Mặt trận Việt Minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi ý kiến của mình bên lề bức thư: "Việt 10). Những điều phê bình trong thư này, không phải là quá đáng. Vậy chú và Thọ 11) phải bàn và thực hành cách sửa chữa ngay".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 285.

- Bản gốc bức thư của ông Nguyễn Xiển có bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Tháng 3, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ hai11, góp ý về công tác của chính trị viên.

Trong thư, Người nhấn mạnh về ba nhiệm vụ chính của người chính trị viên trong quân đội dù ở cấp bậc nào và nêu những nội dung chính của các nhiệm vụ đó.

- Tài liệu của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 392-393.

Tháng 3, trước ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi hai bức điện mật cho Khu V.

Bức điện mật thứ nhất mang số 946/TRT. Toàn văn như sau:

"Mật điện gửi Khu V. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam gửi hai ông Bảy Viễn và Mười Chi chỉ huy bộ đội Bình Xuyên.

1. Cảm ơn hai chú đã gửi điện chúc Tết tôi.

2. Tôi gửi lời thân ái khen ngợi toàn thể bộ đội Bình Xuyên đã luôn luôn cố gắng và tôi chắc anh em sẽ luôn luôn cố gắng thêm để lập nhiều chiến công mới và vẻ vang mới. Chính phủ sẽ vui lòng ghi công những chiến sĩ anh hùng.

3. Tôi lại dặn anh em mọi việc đều đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết, thì việc gì khó mấy cũng dễ giải quyết.

4. Bao giờ có vấn đề gì khó xử thì cứ điện Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy.

5. Nhờ hai chú thay mặt tôi hỏi thăm gia quyến liệt sĩ Ba Dương.

6. Chào thân ái và quyết thắng.

HỒ CHÍ MINH".

Bức điện mật thứ hai mang số 947/TRT. Toàn văn
như sau:

"Mật điện gửi Khu V. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam gửi Trung tướng Nguyễn Bình.

1. Nhờ chú chuyển lời tôi khen ngợi toàn thể bộ đội đã tham gia những trận thắng lớn: Sài Gòn - Đà Lạt, Sài Gòn - Sa Đéc đầu tháng 3 (tháng 3-1948) và lời tôi khuyên bộ đội cố gắng để lập nhiều chiến công mới.

2. Nhân dịp này, riêng tôi gửi lời dặn chú mọi việc phải cẩn thận bàn bạc với anh em UBKCHC và các đồng chí phụ trách quân sự để giữ đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc tối cao của chính quyền dân chủ ta: mọi việc đều đặt lợi quyền của Tổ quốc lên trên để thực hiện đại đoàn kết giữa quân và dân cũng như trong quân đội.

3. Chào thân ái và quyết thắng.

 

HỒ CHÍ MINH".

- Báo Quân đội nhân dân, số 10536, ngày 23-9-1990.

Tháng 3, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Misen Décsini (Michele Zecchini), bạn cũ người Italia, đảng viên Đảng Xã hội Pháp, người đã giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc khi Người mới từ Anh sang Pháp. Bức thư được gửi từ bưu điện Hồng Kông, qua địa chỉ chị gái của Décsini ở Phlorăngxơ (Florence), Italia.

Trong thư, Người viết về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, khẳng định quyết tâm giành độc lập của dân tộc mình; về bệnh phổi và những khó khăn Người phải chống đỡ với khí hậu ẩm ướt ở chiến khu Việt Bắc.

- Michele Zecchini: Le caligraphe (Người viết chữ đẹp), Planète Action, 3-1970, p. 23-28.

Tháng 3, sau ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chia buồn với ông Hồ Tùng Mậu về việc người con trai duy nhất của ông là Hồ Mỹ Xuyên đã hy sinh trong chuyến đi công tác của Đặc uỷ đoàn Chính phủ tại Liên khu X ngày 19-3-1948.

Bức thư viết: "Tôi rất đau xót trước việc cháu Xuyên chết. Cháu Xuyên mất đi, chú mất một người con, tôi mất một người cháu, nhân dân mất một chiến sĩ, Đoàn thể mất một cán bộ...".

- Bút tích bức thư. Bản sao lưu tại gia đình họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Nghệ An.

- Đời nối đời vì nước, Nxb. Nghệ An, 1996, tr. 166.

Tháng 3, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 148/SL, bãi bỏ các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và cấp dưới tỉnh nay thống nhất gọi là cấp huyện.

- Sắc lệnh số 149/SL, quy định bỏ chữ "kiêm" trong danh từ "Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính", và từ nay gọi Uỷ ban đó là "Uỷ ban kháng chiến hành chính".

- Sắc lệnh số 150/SL, quy định về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân trong vùng địch kiểm soát hoặc bị uy hiếp.

- Sắc lệnh số 151/SL, quy định thành phần uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp xã, huyện, tỉnh và liên khu.

- Sắc lệnh số 152/SL, về thể lệ bầu lại một hay nhiều uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính mỗi cấp.

- Sắc lệnh số 153/SL, quy định những uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính không ở trong Hội đồng nhân dân cấp tương đương, đều được coi như hội viên Hội đồng nhân dân cấp ấy.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, trước ngày 29

Đọc trên báo Công dân, biết tin các thân hào, thân sĩ và đồng bào thôn Hải Lạng, xã Vĩnh Thành có những việc làm cụ thể tỏ rõ "chí kiên quyết kháng chiến, và tấm lòng vì nước quên nhà", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi.

Bức thư có đoạn:

"Có nước thì sẽ có nhà... Đến ngày kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công, chúng ta sẽ cùng nhau xây đắp nhà cửa, phố làng đường hoàng và đẹp đẽ hơn, xứng đáng với đời sống mới của nhân dân Việt Nam mới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc".

- Báo Cứu quốc, số 878, ngày 29-3-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 404.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị cán bộ Đảng trong quân đội lần thứ tư. Trong thư, Người nhấn mạnh: Cuộc kháng chiến đã dần dần chuyển sang giai đoạn mới, công việc sẽ nhiều hơn và gay go hơn, cho nên các cán bộ đảng cần chuẩn bị đầy đủ tinh thần, nghị lực, kế hoạch để lãnh đạo toàn quân vượt khó khăn, giành thắng lợi. Quân đội ngày càng trưởng thành và tiến bộ, đòi hỏi "các đồng chí cán bộ của Đảng ở các cấp phải cố gắng tiến bộ hơn, để lãnh đạo bộ đội. Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều phải làm kiểu mẫu".

Trong tháng, Người còn gửi thư tới Hội nghị quân y, biểu dương những cố gắng của nam nữ cán bộ quân y và góp một số ý kiến cụ thể về nhiệm vụ người thầy thuốc, về tổ chức quân y trong hoàn cảnh thiếu cán bộ chuyên môn, về phương hướng phát triển của ngành. Người đề nghị: "Hội nghị sẽ định một chương trình thiết thực để sửa chữa những khuyết điểm và phát triển những ưu điểm của quân y, để làm cho quân y ngày càng tiến bộ".

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 54, 48-49.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 394, 395-396.

Tháng 3

Nhân đọc báo Dân quân của Khu III, biết lão du kích Đỗ Như Thìn ở làng Tuấn Kiệt (Bình Giang, Hải Dương) đã 50 tuổi mà vẫn hăng hái tham gia du kích, có nhiều sáng kiến và lập được nhiều chiến công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư khen ngợi ông Thìn và mong ông cố gắng lập thêm nhiều thành tích. Đồng thời, Người hô hào anh chị em du kích hãy noi gương ông Thìn giết giặc lập công và mong rằng "có những chiến sĩ lão thành như đồng chí Thìn làm kiểu mẫu. Du kích Hải Dương sẽ cố gắng để trở nên du kích kiểu mẫu trong toàn khu, toàn quốc".

Người tặng ông Đỗ Như Thìn bốn chữ: "Lão đương ích tráng".

Trong tháng, Người còn gửi thư cho Trung đội du kích Kim Thành, Hải Dương: "Cảm ơn các chú đã gửi biếu tôi 1 cái áo mưa lấy của giặc. Quý hơn nữa, là các chú hứa: luôn luôn cố gắng lấy vũ khí của địch giết địch".

Người căn dặn:

"Các chú phải luôn luôn nhớ: Du kích là như cá; nhân dân là như nước.

Muốn giết địch thắng trận, thì phải có đồng bào giúp mọi mặt. Muốn được đồng bào vui lòng giúp, thì ta phải giúp đỡ đồng bào, kính trọng đồng bào. Đó là con đường thắng lợi".

- Báo Quân du kích, số 2 và 3, ngày 15-4-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 399, 400.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của một nhà báo nước ngoài về kết quả năm đầu tiên của cuộc kháng chiến và triển vọng tình hình năm 1948.

Về triển vọng tình hình năm 1948, theo Người, cuộc chiến có thể sẽ gay go hơn. "Song dù hy sinh và cực khổ mấy, Chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng quyết kháng chiến đến cùng để tranh kỳ được thống nhất và độc lập thực sự... Hơn 80 năm dưới quyền thống trị của Pháp, nhân dân Việt Nam đã nếm đủ sỉ nhục và đau khổ. Nhân dân Việt Nam quyết không chịu làm nô lệ lần nữa".

- Tài liệu của Bộ Ngoại giao, lưu tại Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 401-403.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Hoàng Mai - Giám đốc Sở Công an Khu XII, nhận xét và góp ý kiến về hình thức và nội dung tờ nội san Bạn dân của Công an Khu XII. Người lưu ý, tờ báo "cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc" và "phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách đạo đức. Tư cách người công an cách mệnh là:

Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành,

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.

Đối với công việc, phải tận tuỵ.

Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 406-407.

Khoảng tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Nguyễn Sơn - Khu trưởng Chiến khu IV, bức thiếp thư viết bằng chữ Hán dưới đây:

Tặng Sơn đệ:

Đảm dục đại

Tâm dục tế

Trí dục viên

Hạnh dục phương.

Đại ý:

Tặng chú Sơn:

Cái gan cần phải to lớn

(nhưng) Cái tâm thì nên tế nhị, chín chắn,

Cái trí phải suy nghĩ cho toàn diện,

(và) Đức hạnh phải vuông vắn, ngay thẳng.

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 4, trước ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị dân quân toàn quốc12, biểu dương những ưu điểm và thành tích của phong trào chiến tranh du kích, đồng thời nêu những khuyết điểm "cần phải sửa chữa ngay" về nhận thức, tổ chức và huấn luyện.

Người đề ra bảy nhiệm vụ cụ thể, cũng là bảy nguyên tắc tổ chức và hoạt động, mà dân quân du kích phải thực hiện để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 415-416.

Tháng 4, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết 12 điều răn gửi anh chị em bộ đội, cơ quan Chính phủ và các đoàn thể, yêu cầu mọi người ai cũng cần phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc hoặc sống chung với dân.

12 điều răn gồm 6 điều không nên 6 điều nên làm, sau cùng là Bài thơ cổ động:

Mười hai điều trên,

Ai làm chả được.

Hễ người yêu nước,

Nhất quyết không quên.

Tập thành thói quen,

Muôn người như một.

Quân tốt dân tốt,

Muôn sự đều nên.

Gốc có vững cây mới bền,

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 409-410.

Tháng 4, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 325.

Tháng 4, ngày 12

Từ 18 giờ đến 21 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ cuộc họp Hội đồng Liên bộ.

Sau đó, Người tổ chức một buổi ngâm thơ và trao đổi ý kiến. Cuộc vui kéo dài đến quá nửa đêm.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 325.

Tháng 4, ngày 13

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn việc giúp đỡ Bình - Trị - Thiên, công tác bảo vệ nội bộ, vấn đề khen thưởng, việc chuẩn bị kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến và một số vấn đề về kinh tế, nội vụ, quốc phòng, giáo dục, y tế, thi đua...

Chiều, do cơn sốt tái phát, Người không dự họp được.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 326.

Tháng 4, ngày 14

Từ chiều đến 21 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 157/SL, bãi bỏ Uỷ ban hộ đê Trung ương và thành lập ở mỗi khu, tỉnh, huyện, và nếu cần ở mỗi xã một Uỷ ban hộ đê gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch và một uỷ viên.

- Sắc lệnh số 158/SL, bổ nhiệm Quyền Tổng Thanh tra Tài chính.

- Sắc lệnh số 159/SL, quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Nha Tổng thanh tra Tài chính, của Tổng Thanh tra và các thành viên.

- Sắc lệnh số 160/SL, cho phép phát hành trong cả nước "Công phiếu kháng chiến" và quy định thể thức mua.

- Sắc lệnh số 161/SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Pháp chính Bộ Nội vụ kể từ ngày 1-4-1948.

- Sắc lệnh số 162/SL, giải tán Uỷ ban kháng chiến hành chính thị xã Bắc Ninh và sửa đổi địa giới của thị xã.

- Sắc lệnh số 163/SL, tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho ba đơn vị: Đội quân giải phóng; Đội quân du kích Bắc Sơn và Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 164/SL, bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Quang. Tham mưu trưởng Chiến khu VIII (Nam Bộ) giữ chức Khu phó Chiến khu VIII kể từ ngày 14-4-1948.

- Sắc lệnh số 165/SL, quy định Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam nay đổi là Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam, ông Tổng Chỉ huy quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam nay gọi là Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam.

- Sắc lệnh số 166/SL, cấp thêm cho quỹ ngoại thương 15 triệu đồng để hoạt động.

- Sắc lệnh số 167/SL, thủ tiêu tiền đồng ở Trung Bộ trong thời hạn hai tháng.

- Sắc lệnh số 168/SL, nghiêm cấm và trừng phạt tệ đánh bạc.

- Sắc lệnh số 169/SL, về việc thành lập Sở Lao động ở mỗi Liên khu kháng chiến hành chính.

- Sắc lệnh số 170/SL, tổ chức lại Toà án quân sự các cấp.

- Sắc lệnh số 171/SL, quy định Nhà máy phốt phát Nghệ An của Bộ Canh nông là doanh nghiệp quốc gia đặc biệt.

- Sắc lệnh số 173/SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Y tế.

- Sắc lệnh số 174/SL, sáp nhập Sở Địa chính Trung Bộ vào Nha Địa chính thuộc Bộ Canh nông và bổ nhiệm Tổng Giám đốc Nha Địa chính.

- Sắc lệnh số 175/SL, chuẩn y ông Nguyễn Khang làm Chủ tịch và ông Nguyễn Duy Thân là Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu I.

- Sắc lệnh số 176/SL, gia hạn việc cấm chạy xe kéo.

- Sắc lệnh số 177/SL, quy định việc định tội xâm phạm tài sản công dân.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 326.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 178/SL, cho phép ông Burgi Anselm - kiều dân Thuỵ Sĩ, được nhập quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Nguyễn Chiến Sĩ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị Tổng bộ Việt Minh.

Trong thư, Người nêu lại một số bài học kinh nghiệm thành công của Việt Minh trong chính sách đối nội, đối ngoại, lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, đào tạo cán bộ, chính sách đại đoàn kết... Đồng thời, Người chỉ ra những khuyết điểm cần chú ý khắc phục để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 411-413.

Tháng 4, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tới gia đình cố Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng bức điện dưới đây:

"Gửi gia đình Huỳnh Bộ trưởng,

Nhân ngày giỗ đầu cố Bộ trưởng, thay mặt Chính phủ, tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Cụ và xin gửi gia đình Cụ lời chào thân ái và quyết thắng.

Ngày 21 tháng 4 năm 1948

HỒ CHÍ MINH".

- Báo Cứu quốc, số 930, ngày 10-5-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 414.

Tháng 4, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 179/SL, bổ nhiệm ông Lê Liêm, Phó Cục trưởng Cục Dân quân, giữ chức Cục trưởng Cục Dân quân thay ông Khuất Duy Tiến.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 180/SL, bãi bỏ kể từ ngày 30-4-1948, các loại giấy bạc Đông Dương do Đông Dương Ngân hàng phát hành trước đây.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quân sự tập san. Bức thư viết:

"Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông.

Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù quáng.

Vậy cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm".

Người còn căn dặn: "Muốn trở nên người quân nhân mới, xứng đáng với cái vinh hạnh đứng trong quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thì mỗi chiến sĩ, từ trên đến dưới, các cấp bậc đều phải nghiên cứu, học tập, luôn luôn cầu tiến bộ".

- Quân sự tập san, số 1, tháng 4-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 417.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị kiến trúc sư.

Bức thư có đoạn:

"Trong 4 điều quan trọng cho dân sinh: ở và đi là hai vấn đề cũng cần thiết như ăn và mặc. Vì vậy kiến trúc là một việc rất quan hệ. Tôi mong Hội nghị sẽ đi tới những kế hoạch thiết thực với tình thế hiện nay và những chương trình kiến thiết hợp với tương lai... đặc biệt là vấn đề nhà ở tại thôn quê, tìm ra những kiểu nhà giản dị và cao ráo sáng sủa và rẻ tiền".

- Tư liệu lưu trữ của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

- Tạp chí Kiến trúc, số tháng 2-1998.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho gia đình bà Hoàng Hữu Nam. Toàn văn bức thư như sau:

"Gửi gia đình bà Hoàng Hữu Nam,

Nhân ngày giỗ năm thứ nhất của chú Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, tôi nhân danh tôi và thay mặt Chính phủ, kính cẩn nghiêng mình trước anh hồn chú Nam và gửi lời thân ái thăm thím và các cháu.

Tháng 4 năm 1948

HỒ CHÍ MINH".

- Báo Cứu quốc, số 930, ngày 10-5-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 418.

Tháng 5, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua yêu nước.

Lời kêu gọi có đoạn:

"Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật cường chẳng kém ai.

Nay muốn tự cấp, tự túc, đi kịp người ta, thì chúng ta phải đi mau.

Vì vậy, sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộcThi đua yêu nước, tức là tăng gia sản xuất".

Cùng ngày, nhân ngày Quốc tế lao động (1-5), Người viết thư gửi đồng bào lao động toàn quốc, kêu gọi mọi người hăng hái ra sức thi đua yêu nước, góp phần làm cho kháng chiến chóng thắng lợi, thống nhất và độc lập chóng thành công.

- Bút tích lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, t.1, tr. 256-257.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 419-420.

Tháng 5, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Hoàng Quốc Việt dặn dò những nội dung cần thiết của số báo ra ngày 19-5-1948, và việc tổ chức ngày kỷ niệm này ở những vùng công giáo và vùng địch tạm chiếm.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, trước ngày 3

Nhân việc một số lớn đồng bào theo giáo phái Hoà Hảo ở Sa Đéc đã quay súng chống lại địch, trở về với hàng ngũ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi đồng bào Cao Đài, Hoà Hảo, nói rõ thái độ của Chính phủ là "rất hoan nghênh những anh em đã tỉnh ngộ" và "Chính phủ cùng toàn quốc đồng bào đang chờ đợi để hoan nghênh những người hiện đang lầm đường theo giặc sẽ noi gương ái quốc của anh em Hoà Hảo đó".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 917, ngày 3-5-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 422.

Tháng 5, ngày 4

Trả lời bức thư của ông Trần Công Tường (Bộ Tư pháp) xin ý kiến về cách giải quyết ân xá cho tù binh như thế nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi vào bức thư: "Nếu phiếu thuận và phiếu phản đối ngang nhau, thì phải do Chủ tịch Chính phủ quyết định".

- Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đội lão du kích huyện Yên Dũng, Bắc Giang, bày tỏ lòng thương tiếc bảy vị lão du kích đã hy sinh vì nước. Thay mặt Chính phủ, Người biểu dương công trạng của các vị và nêu rõ:

"Các cụ ấy đã hy sinh, nhưng lòng yêu nước, chí quật cường, tinh thần dũng cảm của các cụ sẽ ở trong lòng tất cả đồng bào, tất cả mọi người du kích. Và tiếng thơm của các cụ sẽ giai truyền với non sông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thống nhất và độc lập".

Cùng ngày, Người viết thư gửi cụ Chí Tài ở huyện Hải Hậu (Nam Định). Bức thư viết:

"Tôi rất vui lòng khi được báo cáo rằng cụ đã quyên giúp cho anh em du kích 100 thùng thóc, cử chỉ của cụ rất là đáng quý, vậy tôi gửi lời khen ngợi và cảm ơn cụ. Tôi lại mong cụ kêu gọi đồng bào trong làng và tự làm kiểu mẫu trong cuộc Thi đua ái quốc này. Tôi chúc cụ mạnh khoẻ và gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng".

- Báo Quân du kích, số 4, ngày 15-6-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 423-425.

Tháng 5, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 181/SL, cho phép phát hành và lưu hành trên toàn cõi Việt Nam loại giấy bạc năm hào hai hào.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, trước ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh hai lần viết thư cho ông Lê Văn Hiến, nói về việc cấp tiền cho dân quân, xét lương bổng cho các bác sĩ, tìm cách giúp cơ quan vận tải tiếp tế được mau chóng.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 340.

Tháng 5, trước ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn tới ông Enpiđích Quyrinô - Chủ tịch nước Philíppin, khi được tin Chủ tịch Rớcxa từ trần. Bức điện viết:

"Nhân danh Chính phủ và nhân dân Việt Nam và riêng tôi, xin ngài nhận chuyển cho Chính phủ và nhân dân Phi Luật Tân những lời chia buồn thành thực của chúng tôi".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 921, ngày 7-5-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 426.

Giữa tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư phúc đáp cụ Phùng Lục 12), một phụ lão cứu quốc huyện Ứng Hoà, Hà Đông (nay thuộc Hà Tây).

Toàn văn bức thư như sau:

"Kính gửi cụ Phùng Lục, phụ lão Cứu quốc Ứng Hoà, Hà Đông.

Thưa cụ,

Những vị thượng thọ như cụ là của quý vô giá của dân tộc và nước nhà.

Trong ngày chúc thọ, cụ lại miễn sự tế lễ linh đình, mà đem số tiền 500 đồng quyên vào Quỹ kháng chiến. Như thế là cụ đã nêu cái gương hăng hái kháng chiến và cái gương sửa đổi cổ tục thực hành đời sống mới cho toàn thể đồng bào noi theo.

Cháu xin thay mặt Chính phủ cảm ơn cụ và trân trọng chúc cụ sống lâu và luôn luôn mạnh khoẻ để kêu gọi con cháu ra sức tham gia công việc kháng chiến và cứu quốc.

Cháu lại kính gửi cụ lời chào thân ái và quyết thắng.

 

HỒ CHÍ MINH".

- Báo Cứu quốc, số 933, ngày 20-5-1948.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 427.

Tháng 5, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh 13). Nội dung lá thư như sau:

"Hà Nội, ngày 15-5-1948

Gởi anh chị em ở Ban huấn luyện Tổng bộ Việt Minh,

Tôi muốn đến thăm các bạn, nhưng đàng xa quá. Các bạn muốn đến thăm tôi, thì đàng cũng không gần, và tôi thường đi vắng.

Vậy các bạn cố gắng làm việc giỏi. Bao giờ tiện dịp, chúng ta sẽ gặp nhau. Các bạn muốn biết ý kiến tôi về cách học hỏi, công tác. Thì tóm tắt như sau:

Học cốt để mà hành. Thí dụ như chú hoặc cô nào là cán bộ cấp huyện (cán bộ xã hay tỉnh cũng vậy) thì phải biết rõ ràng trong huyện mình cần phải làm những việc gì. Rồi cố học hỏi thảo luận kỹ càng về những việc ấy.

Mỗi người cán bộ tốt, phải thực hành mấy điều:

1. Đối với mình: phải làm đúng cần kiệm liêm chính. Mọi việc đều phải làm kiểu mẫu cho nhân dân. Phải luôn luôn cầu tiến bộ.

2. Đối với công việc: phải cẩn thận, phải có kế hoạch kỹ lưỡng. Phải có ngăn nắp, chớ bao biện, chớ hiếu danh, tự đắc.

3. Đối với dân chúng: phải tôn trọng dân chúng, học hỏi dân chúng. Phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu. Luôn luôn gần gũi dân chúng.

4. Đối với đoàn thể: phải tuyệt đối trung thành. Phải đặt lợi ích của đoàn thể (tức là lợi ích của Tổ quốc) lên trên hết, trước hết.

Mỗi ngày phải tự hỏi: Ta đã làm được việc gì có ích cho đoàn thể, chưa làm thì phải gắng làm đi.

Người cán bộ phải có tinh thần chịu khổ, chịu khó. Phải luôn luôn giữ tấm lòng chí công vô tư.

Cuộc thi đua ái quốc là dịp tốt cho các bạn trổ tài, trổ đức. Tôi mong chờ xem chú nào, cô nào, sẽ có thành tích nhiều nhất.

Chào thân ái và quyết thắng.

HỒ CHÍ MINH".

- Tạp chí Xưa và Nay, số 64, tháng 6-1999.

Tháng 5, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đại biểu các cơ quan trong ATK (An toàn khu) đến chúc thọ nhân ngày sinh của Người.

Cùng ngày, Người đến thăm và gặp gỡ các học viên lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh.

Ông Vũ Kỳ, thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã ghi lại trong Nhật ký của mình một kỷ niệm về sinh nhật của Người năm nay như sau:

"Hôm đó, tôi có mời một số đồng chí về ăn cơm với Bác, nhưng có lẽ vì bận công tác đột xuất nên không ai đến được. Nghĩ sinh nhật mà để Bác phải ngồi ăn cơm một mình, tôi đánh bạo thưa với Bác:

- Thưa Bác, hôm nay cho phép cháu được ăn cơm với Bác.

Bác nheo cặp mắt hiền từ nhìn tôi, rồi tủm tỉm cười:

- Chú tự mời thì chú cứ đến.

... Trong bữa cơm hôm đó, tôi có tâm sự với Bác một số vấn đề về đoàn kết của bộ phận phục vụ. Tôi thưa với Bác:

- Cháu làm việc với Bác đã khá lâu, nhưng chưa một lần nào thấy Bác nặng lời với cháu. Thế mà chỉ có mấy anh em Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi với nhau mà thỉnh thoảng cháu lại cứ cáu gắt với anh em.

Bác vừa ăn vừa nghe tôi nói, rồi ôn tồn bảo tôi:

- Chú làm việc với Bác lâu, thì Bác làm việc với chú cũng lâu chứ, thế mà Bác có thấy bao giờ chú cáu gắt với Bác đâu!

Tôi đang ngỡ ngàng về cách đặt vấn đề của Bác thì đã nghe Bác nói tiếp, vẫn với giọng hiền từ:

- Hai bác cháu ta có gì khó khăn thì bàn bạc với nhau, cùng giải quyết, việc gì mà phải nặng lời, việc gì mà phải cáu gắt. Đó chính là do Bác tôn trọng chú, chú tôn trọng Bác. Vì vậy, chú cứ tự nghĩ xem, trong quan hệ chú đã thật sự tôn trọng anh em chưa? Theo Bác, sở dĩ chú hay cáu gắt với anh em, cái chính là do chú chưa tôn trọng anh em đúng mức.

Suy nghĩ về những lời dạy của Bác, tôi càng thấm thía. Nếu quả đúng nóng là cá tính thì tại sao chỉ nóng với cấp dưới chứ không bao giờ "dám" nóng với cấp trên?

Bữa ăn hôm ấy có thêm món chuối tiêu tráng miệng do tự tay Bác trồng. Lúc ngồi vào bàn ăn, Bác đã thân mật dặn tôi ăn cơm vừa phải còn để bụng ăn chuối tiêu. Vừa ăn chuối, Bác vừa hỏi tôi:

- Chú thấy chuối tiêu có ngon không?

- Thưa Bác, ngon lắm ạ!

- Thế Bác mời chú ăn cơm, không nói cho chú biết là sẽ có chuối tiêu ăn tráng miệng, cứ để chú ăn no căng bụng, thì lúc ăn chuối tiêu còn ngon nữa không?

- Thưa Bác, lúc đó thì bớt ngon ạ!

Bác lại tiếp tục hỏi:

- Bớt ngon mà Bác cứ bắt chú ăn, liệu chú có khó chịu không?

- Thưa Bác, khó chịu ạ!

Bác cứ dắt dẫn như thế và Bác kết luận:

- Chuối tiêu ngon, nhưng ăn không đúng lúc cũng không ngon, ăn không đúng cách lại càng không ngon. Tự phê bình và phê bình cũng vậy. Phải đúng lúc và đúng cách. Và điều quan trọng là phải biết tôn trọng lẫn nhau...".

- Nhật ký Vũ Kỳ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Tạp chí Xưa và Nay, số 64, tháng 6-1999.

- Trần Đương: Những người được Bác Hồ đặt tên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.118-120.

Tháng 5, sau ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn Quốc hội, Chính phủ, đoàn thể, bộ đội, đồng bào trong cả nước và kiều bào ở nước ngoài, đã chúc thọ Người nhân ngày sinh.

Cuối bức thư, Người viết:

"Đồng bào yêu mến tôi, chúc thọ tôi, tôi biết lấy gì, nói gì để báo đáp lại lòng thân ái ấy? Tôi chỉ có một cách báo đáp là kiên quyết cùng đồng bào chịu cực chịu khổ, quyết cùng đồng bào kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, quyết cùng đồng bào tranh lại thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc, quyết cùng đồng bào ra sức làm thế nào cho con cháu chúng ta bây giờ và muôn đời về sau được sung sướng và tự do".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 436-437.

Tháng 5, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ và nói chuyện với ông Lê Văn Hiến. Về việc Nguyễn Văn Xuân sắp sửa tổ chức chính phủ bù nhìn, Người nói đại ý: Bôlaéc cần phải dựng lên một quái thai để về quảng cáo bên Pháp. Bảo Đại đã bị chúng lợi dụng cái tên. Nội bộ chúng sẽ lủng củng và chắc chắn cũng sẽ chẳng làm nên trò trống gì. Thực dân Pháp muốn lừa bịp dân ta nhưng không thể nào lừa bịp nổi.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 356.

Tháng 5, trước ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết dự thảo báo cáo về tình hình thế giới và trong nước để báo cáo trong phiên họp Hội đồng Chính phủ sẽ họp vào ngày 27-5.

- Bút tích dự thảo báo cáo. Bản chụp l­ưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 24

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với ông Lê Văn Hiến về bản báo cáo sẽ trình bày trước Hội đồng Chính phủ do Người chuẩn bị. Xong việc, Người mời chụp ảnh chung giữa vườn tăng gia của Người bên suối.

Chiều, Người trao đổi thêm với một số đồng chí khác, rồi mời mọi người cùng ăn cơm. Trong không khí vui vẻ, Người kể chuyện ở Trung Quốc, Pháp, những mẩu chuyện vui lúc bôn ba ở nước ngoài và ân cần hỏi chuyện gia đình từng người. Vui câu chuyện, mọi người nhắc đến "chuyện riêng" của Người, Người cười: "Mình chẳng phải thần thánh gì, cũng như tất cả mọi người. Nhưng với hoàn cảnh này, còn điều kiện nào nghĩ đến gia đình". Rồi nói tiếp: "Gia đình nhỏ không thể được thì ta cứ lo gia đình lớn đi vậy".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 356.

Tháng 5, trước ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Frères D'Armes:

Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất?

Trả lời: Điều ác.

Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?

Trả lời: Điều thiện.

Hỏi: Chủ tịch cầu mong gì nhất?

Trả lời: Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên hoàn cầu.

Hỏi: Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ gì nhất?

Trả lời: Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 938, ngày 25-5-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 428.

Tháng 5, ngày 25

Sáng sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dọn lên chỗ ở mới trên một ngọn đồi con ở xóm Nà Lọm gần chân đèo Re, huyện Định Hoá, Thái Nguyên. Đây là chỗ ở thứ 20 của Người trên chặng đường trường kỳ kháng chiến.

15 giờ, Người đi họp Đảng đoàn Chính phủ, có bàn vấn đề làm lễ phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp.

Tối, trong cuộc họp với Ban vận động thi đua ái quốc, Người phát biểu ý kiến về mục đích thi đua, cách thi đua, kế hoạch thi đua và hệ thống tổ chức thi đua.

- Nhật ký Vũ Kỳ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 357.

Tháng 5, ngày 26

Từ chiều đến nửa đêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Việt Minh đoàn.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 182/SL, bổ nhiệm người giữ chức Tổng thanh tra Bộ Canh nông thay ông Đào Thiện Thi được phép từ chức.

- Sắc lệnh số 183/SL, bổ nhiệm Phân khu trưởng Phân khu IV và Chính uỷ Phân khu IV.

- Sắc lệnh số 184/SL, bổ nhiệm ông Bằng Giang, đặc phái viên Bộ Tổng chỉ huy, giữ chức Liên khu trưởng Liên khu X và ông Vũ Hiền giữ chức Liên khu phó Liên khu X.

- Sắc lệnh số 185/SL, ấn định tạm thời thẩm quyền của Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp trong thời kỳ chiến tranh.

- Sắc lệnh số 186/SL, ấn định quyền phạt các tội vi cảnh của các Trưởng ban trật tự Ty Công an và Quận trưởng công an.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 357.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 27

8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khai mạc phiên họp Hội đồng Chính phủ và đọc báo cáo trước Hội đồng. Báo cáo nêu những nhận định về tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là âm mưu mới của thực dân Pháp và bọn bù nhìn, cách đối phó của ta.

Đến nửa đêm phiên họp mới kết thúc.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 358-359.

Tháng 5, ngày 28

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

13 giờ, Người chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp và trực tiếp đọc Sắc lệnh của Chủ tịch nước. Phát biểu tại buổi lễ, Người nói: "Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều khiển binh sĩ làm tròn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho". Sau buổi lễ, Người tâm sự với mọi người, đại ý: Các cụ ta qua bao thế hệ chiến đấu cho độc lập mà không thành, nhắm mắt mà chưa thấy được dân tộc tự do. Chúng ta may mắn hơn. Nhưng còn phải bao nhiêu hy sinh cố gắng. Hôm nay việc phong tướng cho chú Giáp và các chú khác cũng là kết quả của bao nhiêu hy sinh, chiến đấu của đồng bào, đồng chí. Chúng ta phải cố gắng, phải quyết giành được độc lập, tự do cho thoả lòng những người đã mất.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 190/SL, tái lập Nha Thống kê trong Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 191/SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Thống kê trong Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 192/SL, cấm buôn bán, chuyên chở, tàng trữ có tính chất buôn bán các xa xỉ phẩm ngoại hoá trong toàn cõi Việt Nam.

- Sắc lệnh số 193/SL, về việc thiết lập Hội đồng sản xuất kỹ nghệ của Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 194/SL, bãi bỏ Uỷ ban hộ đê Trung ương trước đây và thành lập ở mỗi liên khu, tỉnh, huyện, xã một Uỷ ban bảo vệ đê điều.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 359-360.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 188/SL, sửa đổi chế độ lương của công chức nhằm cải thiện đời sống và đơn giản hoá chế độ công chức.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 30

Bài Vài con số hay hay của Pháp, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 94.

Bằng những số liệu cụ thể nêu rõ những thiệt hại về người và của của Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trong thời kỳ nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, về số "Pháp gian" đã bị nhân dân Pháp trừng trị sau khi kháng chiến thành công, về những chi phí khổng lồ cho bộ máy quân sự của Pháp từ giữa năm 1946 sau khi phái phản động thắng thế ở Pháp, những bất công và tiêu cực trong đời sống xã hội Pháp..., bài báo vạch trần cái gọi là "đạo đức thanh liêm" của thực dân Pháp.

- Báo Sự thật, số 94, ngày 30-5-1948.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn nhân dịp nhà trường khai giảng khoá 4. Người nêu rõ nhiệm vụ của trường "chẳng những phải cố gắng học tập kỹ thuật cho ngày càng tiến bộ, mà còn phải giữ vững và phát triển truyền thống vẻ vang của quân đội ta" và căn dặn: "Ở trường cũng phải có cuộc thi đua yêu nước. Giáo viên thì thi đua tìm cách dạy cho dễ hiểu, cho chóng tiến bộ. Học sinh thì thi đua học cho chóng, cho nhiều, cho tốt".

Người tặng nhà trường sáu chữ: Trung với nước, hiếu với dân.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 80-81.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 431-432.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ S.Êli Mâysi (S.Elie Massie), phóng viên Hãng International News Service. Một lần nữa, Người khẳng định: "Chiến tranh sẽ chấm dứt ngay khi nào nước Việt Nam được độc lập và thống nhất thực sự". "Chúng tôi chiến đấu chống thực dân Pháp nhưng bao giờ cũng là bạn của nước Pháp dân chủ".

Trả lời câu hỏi: Nếu cuộc chiến tranh lại gay go trong thời gian sắp tới thì Ngài tính sẽ trông cậy vào những sự hỗ trợ nào trong thời gian sắp tới? Người nêu rõ: "Chúng tôi bao giờ cũng trông cậy vào chúng tôi và vào cái cảm tình tích cực của các người dân chủ thế giới, trước hết của các người dân chủ Pháp".

- Tài liệu của Bộ Ngoại giao, lưu tại Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 429-430.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Vũ Trọng Khánh - Giám đốc Tư pháp Liên khu X, chia buồn khi biết được tin bà cụ thân sinh ông Khánh mất, biểu dương tinh thần vượt khó của anh em thẩm phán và động viên ông Khánh trước tình hình thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn đang ráo riết dụ dỗ, lôi kéo giới trí thức.

Thư của Người có đoạn:

"Chú lo đến những việc đó, rất đúng. Thế thì những cán bộ cao cấp như chú và các vị giám đốc khác có nhiệm vụ luôn luôn giải thích và khuyên gắng các anh em tư pháp sao cho xứng đáng với nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi người, xứng đáng với lòng tin cậy của Chính phủ, xứng đáng với lịch sử, với đồng bào, với Tổ quốc.

Ai chẳng muốn no cơm ấm áo. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người đó là hết. Còn tiếng tăm xấu hay tốt, còn truyền đến ngàn đời sau...

Chúng ta có tinh thần vững vàng, tin tưởng chắc chắn thì "phú quý không dụ dỗ được ta, oai lực không doạ nạt được ta". Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến cụ Bùi Bằng Đoàn nhờ góp ý kiến cho bản thảo Lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố của Người.

Nguyên văn bức thư gửi cụ Bùi Bằng Đoàn như sau:

"Kính gửi cụ Bùi

Trưởng Ban Thường trực Quốc hội.

Thưa cụ,

Tôi muốn có một bài truy điệu cụ Tố. Nhưng nhờ người viết thì không biết nhờ ai. Tự viết lấy thì viết không được, vì xưa nay tôi chưa hề tập viết văn tế.

Vậy tôi cứ bạo dạn thảo ra đây, trình cụ xem. Nếu có thể sửa thì xin cụ sửa giùm. Nếu không thể sửa, thì ta làm văn xuôi vậy.

Khi tôi thảo xong, đọc lại, nghe khá chướng tai. Vì đối với cụ, tôi không dám giấu dốt, cho nên cứ gửi để cụ xem.

Mong kỳ hội đồng sau sẽ được gặp cụ. Kính chúc cụ mạnh khoẻ và xin cụ chuyển lời tôi hỏi thăm cụ Phan và cụ Vi.

Chào thân ái và quyết thắng

5-1948

HỒ CHÍ MINH".

 

Nguyên văn Lời điếu cụ Nguyễn Văn Tố như sau:

"1. Than ôi!

Sương bay nghi ngút, sao Đẩu ám mờ.

Mây phủ mê man, Thái Sơn ngừng biếc.

Nhớ cụ xưa,

Văn chương thuần tuý, học vấn cao sâu

Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết

Mở mang văn hoá, cụ dốc một lòng

Phú quý công danh, cụ nào có thiết.

Đến ngày dân tộc giải phóng thành công

Thì cụ sẵn sàng ra tay giúp việc.

Giữ chức Bộ trưởng thì cụ ngày ngày gần gũi nhân dân

Đại biểu Quốc hội thì cụ luôn luôn tính bàn kiến thiết.

2. Dân ta hết sức tôn trọng hoà bình.

Giặc Pháp dã tâm nên lưu huyết.

Từ ngày toàn quốc kháng chiến nổ bùng

Thì cụ tâm tâm hô hào đoàn kết:

Lũ Tây gặp nhà là đốt, gặp của là vơ

Thấy làng thì phá, thấy người thì giết.

Non sông gấm vóc há cam lòng chịu đọa đày

Con cháu Lạc Hồng, nào để thực dân khinh miệt.

Ngày này qua tháng khác, cụ đi động viên tinh thần dân chúng khắp xa gần,

Xứ Bắc đến miền Nam, cụ đã trông thấy sức kháng chiến ngày thêm mãnh liệt.

3. Quân địch ào ào tấn công

Trong vùng cụ đang làm việc.

Chúng tra tấn cụ, cực kỳ tàn khốc, dã man.

Cụ trả lời chúng bằng một nụ cười oanh liệt.

Chúng làm hại cụ, lịch sử Pháp muôn đời thêm một vết xấu xa.

Cụ dù hy sinh, tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt.

Với cụ, dân tộc mất một người chí sĩ, thế giới mất một người danh nho.

Cho nên Chính phủ khôn xiết nỗi buồn rầu, đồng bào khôn xiết lòng thương tiếc.

4. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước anh linh cụ mà hứa rằng:

Từ đây, quốc dân ta đã đồng tâm, càng thêm đồng tâm.

Chính phủ ta đã kiên quyết, càng thêm kiên quyết.

Quyết trường kỳ kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn.

Quyết tranh thống nhất, độc lập cho nước nhà Việt Nam.

Để anh linh cụ và những liệt sĩ đã hy sinh đều vui sướng ở chốn suối vàng.

Và nền dân chủ cộng hoà của đất nước sẽ vững như vầng nhật nguyệt".

- Bản chụp công văn lưu của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Tác phẩm mới, số 3, tháng 5-1990, tr. 14 - 16.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn các cụ phụ lão xã Vĩnh Đồng, châu Lương Sơn (nay thuộc huyện Kim Bôi), tỉnh Hoà Bình đã gửi biếu Người mật ong.

Bức thư có đoạn:

"Lòng thân ái của các cụ đối với tôi, khiến tôi rất cảm động. Tôi mong rằng các cụ sẽ cố gắng đốc thúc con cháu hăng hái tham gia cuộc thi đua ái quốc, làm cho mọi người đủ ăn đủ mặc và sẵn sàng giúp đỡ bộ đội và dân quân. Như thế là các cụ cũng trực tiếp tham gia kháng chiến".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố sau khi Pháp thành lập Chính phủ bù nhìn toàn quốc tại Hà Nội13.

Tuyên bố nêu rõ: Chính phủ và nhân dân Việt Nam "không bao giờ thừa nhận những giấy tờ gì do bọn bù nhìn ấy ký kết với bất cứ nước nào" và "sẽ theo pháp luật nước nhà trừng trị bọn phản quốc ấy".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 438.

Tháng 6, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi nhân dân cả nước và toàn thể các tướng sĩ nhân dịp 1.000 ngày kháng chiến.

Sau khi nhắc lại truyền thống đấu tranh kiên cường của dân tộc Việt Nam, phân tích những điều kiện và hoàn cảnh của cuộc kháng chiến hiện nay, tình hình địch ta và triển vọng của cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta, Lời kêu gọi viết:

"Chúng ta đủ điều kiện thắng lợi. Chúng ta chắc thắng lợi. Song chúng ta phải biết rằng, càng gần đến thắng lợi thì càng gay go. Mà gay go càng nhiều, thì thắng lợi càng to. Vì vậy, mỗi một người quốc dân phải tẩy sạch cái thói: khi thì quá lạc quan, khi thì quá bi quan. Phải tẩy sạch cái chứng cầu yên, gặp sao hay vậy, muốn ăn quả mà biếng trồng cây.

Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do. Đã đoàn kết, ta phải đoàn kết chặt chẽ rộng rãi thêm. Đã cố gắng, ta phải hăng hái mà cố gắng mãi. Mỗi một người phải lấy việc xung phong trong phong trào Thi đua ái quốc làm nhiệm vụ thiêng liêng của mình, phải cố làm cho được.

Như vậy, thì kháng chiến nhất định thắng lợi, kiến quốc nhất định thành công".

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 439-442.

Tháng 6, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc14. Lời kêu gọi nêu rõ mục đích, phương châm và khẩu hiệu của thi đua ái quốc, những nội dung thi đua cụ thể cho từng giới đồng bào và hô hào mọi tầng lớp nhân dân ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc.

Người tin tưởng: "Với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chúng ta có thể thắng lợi, chúng ta nhất định thắng lợi".

Cùng ngày, Người gửi thư khen:

- Chiến sĩ Trần Văn Diên (tỉnh Nam Định) về thành tích giết giặc, đánh địa lôi, diệt xe ôtô, xe tăng của địch và tặng anh danh hiệu Anh hùng địa lôi.

- Cụ Nguyễn Văn Đản (xã Chí Minh, huyện Duyên Hà, Thái Bình) về thành tích "thi đỗ nhất trong giới phụ lão", và "mong cụ làm kiểu mẫu cho đồng bào trong tỉnh" trong cuộc thi đua ái quốc.

- Chị Phạm Thị Phượng (xã An Ninh, huyện Kiến Xương, Thái Bình) "đã đỗ thứ nhất trong tỉnh". "Mong cháu cố gắng học thêm, và trong cuộc thi đua ái quốc cháu cũng ra sức xung phong như trong việc học bình dân học vụ".

- Chị Phạm Thị Tỵ (xã Hợp Tiến, huyện Vũ Tiên, Thái Bình) "thi quốc ngữ đỗ thứ nhì". "Mong cháu cùng các chị em xung phong trong cuộc thi đua ái quốc, làm cho nổi tiếng phụ nữ Thái Bình".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 968, ngày 24-6-1948.

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 2), số 958, ngày 11-6-1948.

- Bút tích các bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 443-450.

Tháng 6, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với Hội nghị cán bộ lần thứ năm và ở lại đây hai ngày.

- Nhật ký Vũ Kỳ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 198/SL, ấn định thủ tục thiết lập hoặc sửa đổi địa giới các đơn vị kháng chiến hành chính xã, huyện, tỉnh, thành phố, liên khu, trong thời kỳ kháng chiến.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, trước ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh em thương binh Trại an dưỡng Liên khu X. Thư viết:

"Cảm ơn các chú đã gửi chè biếu tôi. Chè ngon lắm, vì tự các chú đã sản xuất được. Tôi rất vui lòng, các chú hăng hái tham gia cuộc Thi đua ái quốc, quyết chí đi đến tự cấp tự túc. Tôi chắc các chú sẽ thành công".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 958, ngày 14-6-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 447.

Tháng 6, ngày 14

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ để đánh giá công việc của các bộ từ sau ngày kháng chiến, đặc biệt là sự phối hợp chương trình hoạt động giữa các bộ.

Phát biểu tại cuộc họp, Người lưu ý về tình trạng thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, cần khắc phục thiếu sót đó theo nguyên tắc: tổ chức hợp lý, chỉ đạo hợp lý và thi hành hợp lý.

Chiều, Người dự bữa cơm do ông Võ Nguyên Giáp tổ chức tại nhà riêng để mừng ông Phạm Ngọc Thạch mới đi công tác về.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 372.

Tháng 6, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Bằng khen tặng cho sáu đơn vị, tập thể và cá nhân 14).

- Bản chụp Công văn số 1545 (6-1948) của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 16

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa cuộc họp Hội đồng liên bộ. Một trong những vấn đề được bàn nhiều là biện pháp đối phó với chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân và thái độ đối với Vĩnh Thuỵ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 372.

Tháng 6, ngày 19

Nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các cán bộ và chiến sĩ, biểu dương những cố gắng tiến bộ của bộ đội trong mùa "luyện quân lập công" vừa qua. Những đơn vị có thành tích xuất sắc nhất được Người nêu tên cụ thể. Người còn nhắc đến những đóng góp của các đội du kích, phụ lão, phụ nữ, các cháu liên lạc "đã làm cho thế giới biết rằng: người già, đàn bà và trẻ con Việt Nam đều là những chiến sĩ yêu nước và dũng cảm, tranh đấu hy sinh cho Tổ quốc", và căn dặn mọi người "phải tiếp tục tiến bộ mau hơn nữa, nhiều hơn nữa", "phải thi đua nhau, đánh những trận to lớn hơn nữa, giết nhiều giặc, cướp nhiều súng hơn nữa".

Trong ngày, Người dự Lễ kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, cũng là Lễ phát động thi đua ái quốc. Tại buổi lễ, Người nói chuyện về tình hình, nhiệm vụ, giải thích về thi đua.

- Báo Vệ quốc quân, số 25, ngày 19-6-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.451-452.

- Báo Nhân dân, số Xuân Ất Sửu (1985).

Tháng 6, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen đồng bào xã Giới Xuân (Gia Định, Nam Bộ) về thành tích đã thanh toán xong nạn mù chữ. Người mong các xã khác cố gắng noi gương Giới Xuân: "Chúng ta cần phải đánh tan giặc dốt, cũng như đánh tan giặc ngoại xâm".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 453.

Tháng 6, trước ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các khu về việc tổ chức kỷ niệm 1.000 ngày chiến đấu của đồng bào miền Nam.

Bức thư có đoạn:

"Để nhớ đến bao nhiêu chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ đã bỏ mình vì nước trên bãi chiến trường hoặc dưới sự tàn sát của quân giặc; để ghi công những chiến sĩ đã tiên phong giữ vững nền độc lập và thống nhất của nước nhà, toàn quốc sẽ long trọng kỷ niệm 1.000 ngày chiến đấu của đồng bào miền Nam.

"Nhân dịp ấy, Chính phủ sẽ tuyên dương công trạng và thăng thưởng các chiến sĩ miền Nam đã có công đặc biệt với nước nhà. Các khu cần báo cáo gấp để Chính phủ xét".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 2), số 968, ngày 22-6-1946.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 454.

Tháng 6, trước ngày 26

Nhân dịp Hội nghị kinh tế lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi hội nghị, nhấn mạnh:

"Chúng ta kháng chiến về mọi mặt. Kinh tế là một mặt trận rất quan trọng.

Chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Kinh tế lại là một ngành hoạt động tối quan trọng.

Bây giờ chúng ta phải có một nền kinh tế kháng chiến. Nền kinh tế đó làm cơ sở cho nền kinh tế kiến quốc.

Vì vậy chúng ta phải có chương trình kế hoạch kinh tế rất thiết thực. Chúng ta phải làm cho "Thực túc binh cường". Khi đã có kế hoạch đó, thì chúng ta phải cố gắng thực hiện cho kỳ được".

- Báo Cứu quốc, số 895, ngày 26-6-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 455.

Tháng 6, trước ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào các tỉnh có đê, nhắc nhở mọi người phải coi việc giữ vững đê điều để chống giặc lụt cũng là công việc kháng chiến, và mong đồng bào sẽ quyết tâm vượt qua mọi khó khăn.

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 2), số 975, ngày 30-6-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 456-457.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn ông Hướng Tề đã biếu Người gói thuốc bổ và mong ông trong cuộc thi đua yêu nước cố gắng tìm thêm các thứ thuốc cho dân.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 460.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho ông Hoàng Đạo Thúy đề nghị ông làm Tổng thư ký cho Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương.

Bức thư viết:

"Gửi ông Hoàng Đạo Thuý.

Lão đồng chí,

Nay có một việc rất quan trọng, cần một người có sáng kiến, nhiều kinh nghiệm và tính xốc vác. Tức là việc làm Tổng Bí thư cho Ban thi đua Trung ương.

Tôi muốn nhờ đồng chí phụ trách việc ấy, chắc đồng chí sẽ không từ chối. Vẫn biết bên Quốc phòng và Tổng chỉ huy cũng cần đồng chí giúp. Song nếu đồng chí bằng lòng, thì tôi sẽ tìm cách thu xếp.

Chào thân ái và quyết thắng.

6-1948".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen cháu Đặng Phúc Hải, liên lạc viên huyện đội Kim Môn (Hải Dương), vì thành tích đã giết được ba tên địch và giải vây cho một số người trong trận đánh ngày 26-3-1948 ở Kim Môn.

Người tặng cho Đặng Phúc Hải danh hiệu Nhi đồng anh hùng và căn dặn: "Cháu chớ vì được khen thưởng mà kiêu ngạo tự đắc. Cháu phải khiêm tốn hơn, phải ra sức học tập thêm, phải cố gắng để lập công thêm trong cuộc luyện quân lập công mới... Như thế mới thật xứng đáng là cháu yêu của Bác".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 461.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Vũ Phạm Phổ 15), Hội trưởng Liên Việt huyện Lục Ngạn, Bắc Giang bức thiếp thư sau đây:

"Gửi ông Vũ Phạm Phổ, Hội trưởng Liên Việt Lục Ngạn, Bắc Giang.

Tôi rất vui lòng được UBKCHC Liên khu X báo cáo rằng: Mặc dầu sức yếu, ngài vẫn ra sức giúp việc kháng chiến, và đã giúp UBKCHC nhiều sáng kiến tốt. Tôi mong rằng ngài sẽ cố gắng kêu gọi và giúp đỡ đồng bào Lục Ngạn trong cuộc Thi đua ái quốc, làm cho huyện nhà trở nên một huyện kiểu mẫu.

 

Chào thân ái và quyết thắng

6-1948

HỒ CHÍ MINH".

- Bản chụp thiếp thư, lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cụ Vũ Duy Thanh, người xã Ba Xuyên (nay thuộc xã Dũng Tiến), huyện Thường Tín, Hà Tây. Người viết:

"Tôi cảm ơn cụ đã gửi cho tôi 500 đồng để làm giải thưởng cho bộ đội và đã quyên cho xã 50 đồng để thưởng đội du kích xã trong cuộc luyện quân lập công. Tôi lại cảm ơn cụ đã chịu khó dạy học cho các cháu trong làng. Lòng tận tuỵ của cụ rất là đáng kính. Tôi mong cụ hăng hái kêu gọi đồng bào trong xã xung phong thi đua ái quốc".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 459.

Mùa hè

Tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu quân sự Bình - Trị - Thiên do ông Trần Văn Quang làm Trưởng đoàn.

Nói chuyện với Đoàn, Người nêu rõ: địch càng khủng bố càn quét thì máu căm hờn của đồng bào ta càng sôi sục nhiều hơn. Đó là một điều để ta chuyển được tình thế. Kháng chiến của ta là toàn dân, toàn diện, cả nước kháng chiến. Từ Nam Quan đến Cà Mau chỉ có một mặt trận. Nhưng từng nơi có hoàn cảnh riêng. Có bại rồi mới có thắng. Có nhỏ rồi mới có to, có tổ du kích ngày trước thì mới có lực lượng hùng hậu ngày nay.

Cũng vào mùa hè, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiếp Đoàn đại biểu quân, dân, chính Nam Bộ do ông Trần Văn Trà làm Trưởng đoàn.

Người ân cần thăm hỏi Đoàn về tình hình đoàn kết nội bộ và đoàn kết toàn dân, tình hình tổ chức dân quân, việc giúp đỡ nhân dân nước bạn Campuchia.

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 141-142.

Giữa năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ban chỉ huy Đoàn Nhạc binh bức thư dưới đây:

"Gửi Ban chỉ huy Đoàn Nhạc binh,

Dạy dỗ, dìu dắt các em nhỏ là nhiệm vụ của những người anh lớn tuổi. Đánh đập, sỉ nhục cấp dưới là quân đội của thời trước. Nay các chú là quân đội của cách mạng rồi, cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết, thương yêu đùm bọc nhau, coi như anh em ruột thịt một nhà.

Bác cấm các chú từ nay về sau không được có hành động quân phiệt với các em nhỏ nữa.

BÁC HỒ" 16).

- Báo Quân đội nhân dân, số 10388, ngày 26-4-1990.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 458.

------------------------

Chú thích

1)  Ông Đinh Công Phủ, người Mường, lang đạo vùng Mai Đà (Mai Sơn, Đà Bắc, Hoà Bình) (B.T).

2) Cựu quan chức Nam Triều, người trong Hoàng tộc, thân sinh nhà bác học Bửu Hội. Sau khi nhận được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ đã lên chiến khu, ngày 26-2-1949 đã ra tuyên bố: "Tôi vốn là cựu quan chức Nam Triều và là người trong Hoàng gia. Nay thực dân Pháp thực hiện mưu mô lấy người Việt trị người Việt, tôi phẫn uất quá, nên tôi phải lìa nhà lên chiến khu, nguyện theo Chính phủ để giúp một đôi phần hiểu biết vào công cuộc kháng chiến cho đỡ nỗi phẫn uất trong lúc tuổi già...".

3) Tờ báo của ta xuất bản bằng tiếng Đức nhằm thức tỉnh lính lê dương người Đức và người Áo trong quân đội viễn chinh Pháp ở Việt Nam (B.T).

4)  Bản dịch của Xuân Thuỷ (B.T).

5) Phụng công, thủ pháp: chăm lo việc công, giữ gìn pháp luật (B.T).

6) Đầu năm 1948, Chính phủ cử một đoàn ngoại giao đi các nước Thái Lan, Mianma, Trung Quốc và Tiệp Khắc để tuyên truyền về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư này cho đoàn (B.T).

7) Bức thư được trao cho ông Trần Đức Quỳ và Trần Mai để trực tiếp chuyển cho Hoàng thân, mãi tới tháng 5-1948, Xuphanuvông mới nhận được (B.T).

8) Người Mường, Phó Chủ tịch, Hội trưởng Hội Liên Việt tỉnh Hoà Bình (B.T).

9) Cụ Bùi Bằng Đoàn (B.T).

10) Hoàng Quốc Việt (B.T).

11) Lê Đức Thọ (B.T).

12) Ngày 10-2-1948 (mồng Một Tết Mậu Tý), cụ Phùng Lục đã gửi thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài lời chúc mừng năm mới, bức thư có đoạn:

"Nhờ ơn Tổ quốc, năm nay tôi hưởng thọ 90 tuổi, theo cổ tục tất phải làm lễ thượng thọ; nhưng trong lúc này, nước nhà có việc, nên tôi miễn sự tế lễ ăn uống, thành tâm đem món tiền 500 đồng kính dâng Chủ tịch để sung vào Quỹ kháng chiến toàn quốc.

Ước mong món tiền nhỏ trên đây được thu nhận để giúp ích trong muôn một thì lòng già rất được hân hoan...".

Do hoàn cảnh kháng chiến, mãi tới tháng 5-1948, bức thư mới tới được tay Chủ tịch Hồ Chí Minh và Người đã viết lá thư phúc đáp trên.

13) Lớp huấn luyện do Tổng bộ Việt Minh tổ chức, mở từ tháng 2-1948 tại ATK (An toàn khu) ở làng Quảng, huyện Định Hoá (Thái Nguyên). Vì là khoá huấn luyện đầu tiên nên được đặt tên là "Khoá Hồ Chí Minh". Tập thể học viên đã quyết định viết thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ nguyện vọng mong muốn được gặp Người. Người đã viết thư trả lời.

14) 1- Nhân dân, cán bộ bình dân học vụ xã Nghĩa Dân (Quảng Ngãi).

2- Ông Vương Kiêm Toàn, phụ trách Bình dân học vụ Khu X.

3- Tiểu đội lão thành Điền Lữ (Lạng Sơn).

4- Ông Hoàng Lao Tả ở Tú Lệ (Yên Bái).

5- Hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung, Chủ tịch Hội Văn hoá kháng chiến.

6- Ông Phạm Phú Tiết, Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ.

7- Ông Trương Quang Hỷ, công đoàn hoả xa Trung Bộ (B.T).

15) Vũ Phạm Phổ, người xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông làm tri châu, rồi tri phủ Lục Ngạn (Bắc Giang). Sau cách mạng, nhờ chính sách đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông hăng hái tham gia công tác ở địa phương và đã có những đóng góp tích cực (B.T).

16) Giữa năm 1948, hưởng ứng cuộc thi báo tường của Phòng Tuyên truyền quân đội, nhạc sinh quân dự thi với tờ Tuổi xanh. Tờ báo đoạt giải nhất và được Bác Hồ xem. Trong báo có một bức tranh của Nguyễn Thế Vinh vẽ cảnh một nhạc binh lớn tuổi tát một nhạc sinh quân trong lúc học. Người đã viết lá thư trên cho Ban chỉ huy Đoàn Nhạc binh (B.T).

* Năm 1948 - Từ tháng 7 đến tháng 12

Tháng 7, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Đảng đoàn Chính phủ để giải quyết một số việc quan trọng trước khi Hội đồng Chính phủ họp. Nội dung gồm các vấn đề: thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao; hợp nhất hai Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy; cử thứ trưởng tuyên truyền trong Chủ tịch phủ; cho ý kiến về Sắc lệnh lưu hành đồng "Việt".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 382.

Tháng 7, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Việt Minh đoàn bàn một số vấn đề sẽ đưa ra thảo luận tại Hội đồng Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 382.

Tháng 7, ngày 6

9 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để đánh giá tình hình thế giới và trong nước, kiểm điểm hoạt động của các bộ trong 1.000 ngày kháng chiến; vấn đề nội chính, ngoại giao, kinh tế; việc thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao; việc hợp nhất hai Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng chỉ huy thành Bộ Quốc phòng, cử Bộ trưởng và Thứ trưởng Bộ Quốc phòng...

Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 383.

Tháng 7, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 201/SL, về việc thành lập "Ban thi hành chính sách bao vây kinh tế địch".

- Sắc lệnh số 202/SL, cử ông Khuất Duy Tiến làm Đặc phái viên Chính phủ thi hành chính sách bao vây kinh tế địch.

- Sắc lệnh số 203/SL, phong quân hàm Thiếu tướng cho ông Lê Thiết Hùng.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 199/SL, ấn định đơn vị tiền tệ Việt Nam là đồng "Việt". Sắc lệnh ghi rõ: "Đồng "Việt" là một đồng vàng cân nặng 0g375 vàng nguyên chất".

- Sắc lệnh số 200/SL, về việc trưng tập tất cả các công chức tòng sự tại các công sở, kể cả các nhân viên Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị giáo dục toàn quốc 1).

Người nhấn mạnh đến yêu cầu phải xây dựng một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. Muốn vậy, cần phải "sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho hợp với sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc". "Phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường", "Phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc", "Phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc", "Phải có một chương trình để nâng cao thêm trình độ văn hoá phổ thông của đồng bào".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 462-463.

- Hồ Chí Minh: Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1972, tr. 24-25.

Tháng 7, ngày 15

Nhân dịp 27-7, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi biểu dương những hy sinh to lớn vì Tổ quốc và đồng bào của các thương binh, tử sĩ và kêu gọi nhân dân cả nước hãy sẵn lòng giúp đỡ anh em thương binh và gia đình tử sĩ cả về vật chất và tinh thần để đền đáp lại công ơn đó.

Cùng ngày, Người viết Thư gửi Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai 2), nêu rõ vai trò, nhiệm vụ của văn hoá trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc và căn dặn: "Chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, tôi thiết tưởng, các nhà văn hoá ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng". "Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế".

Trong ngày, Người còn viết Thư gửi Đội Công an danh dự Bắc Ninh, khen ngợi anh em về những thành tích đã đạt được và mong mọi người cố gắng thi đua thực hiện khẩu hiệu "mỗi ngày lập một chiến công".

- Báo Quân du kích, số 5, ngày 15-7-1948.

- Báo  Cứu quốc, số 1011, ngày 12-8-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 464-467.

- Bút tích Thư gửi Đội Công an danh dự Bắc Ninh, lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

Tháng 7, ngày 30

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Giữ bí mật, ký bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 97.

Bài báo nhấn mạnh: "Chiến tranh thắng hay bại, một phần lớn do biết giữ bí mật hay không biết giữ bí mật, mà quyết định" và khẳng định: "Biết giữ bí mật tức là đã nắm chắc một phần lớn thắng lợi trong tay ta".

- Báo Sự thật, số 97, ngày 30-7-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 468-469.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thăm hỏi và biếu quà ông Bộ trưởng Bồ Xuân Luật khi nghe tin ông bị ốm.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi báo Vệ quốc quân 3) căn dặn: "Báo Vệ quốc quân phải là người bạn thân thiết của mỗi một chiến sĩ Vệ quốc quân. Vì vậy cần phải đi sát với sự sinh hoạt và sự phát triển của Vệ quốc quân". "Mỗi một chiến sĩ Vệ quốc quân phải là một người bạn thân thiết của báo "Vệ quốc quân". Vì vậy phải giúp cho báo "Vệ quốc quân" phát triển".

- Báo Vệ quốc quân, số 28, ngày 19-8-1948.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 87.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 470.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cụ Võ Liêm Sơn bài thơ chữ Hán 4):

TẶNG VÕ CÔNG

Thiên lý công tầm ngã,

Bách cảm nhất ngôn trung.

Sự dân nguyện tận hiếu,

Sự quốc nguyện tận trung.

Công lai ngã hân hỉ,

Công khứ ngã tư công.

Tặng công chỉ nhất cú:

Kháng chiến tất thành công.

 Dịch thơ:

TẶNG CỤ VÕ

Nghìn dặm cụ tìm đến,

Một lời trăm cảm thông.

Thờ dân trọn đạo hiếu,

Thờ nước vẹn lòng trung.

Cụ đến, tôi mừng rỡ,

Cụ đi, tôi nhớ nhung.

Một câu xin tặng cụ:

"Kháng chiến ắt thành công".

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 113-114.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho thương, bệnh binh. Người động viên và khuyên nhủ anh em yên tâm điều trị cho hồi phục sức khoẻ, đồng thời nên tranh thủ học tập để sau này có thể tiếp tục tham gia công tác giúp ích cho Tổ quốc, "trở nên người công dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở ngoài mặt trận".

- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, t.1, tr. 226.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 471.

Tháng 8, trước ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ năm 5), căn dặn mọi người "sẽ rút kinh nghiệm đầy đủ, đặt kế hoạch thiết thực cho giai đoạn mới của cuộc kháng chiến".

Trong thời gian diễn ra hội nghị, Người đã đến thăm và nói chuyện. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tư cách của cán bộ chỉ huy: "Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là:

Phải: Trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung".

Về công tác của người tướng, Người căn dặn: với kỷ luật, phải giữ nghiêm từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, thưởng phạt phải công minh, "chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà phạt, ai hẩu với mình thì dùng, ai trực tính nói ngay thì bỏ"; với binh sĩ, "thì lời ăn tiếng nói, niềm vui, nỗi buồn, quần áo, nhất nhất phải biết rõ và hết sức chăm nom", phải đồng cam cộng khổ; với dân, phải làm cho bộ đội được dân yêu, dân tin, dân phục; với kẻ thù, tuyệt đối không được khinh địch, "Sư tử muốn bắt con chuột cũng phải dùng hết sức mới bắt được", phải biết rõ chúng và phải hết sức giữ bí mật.

- Báo Cứu quốc, số 1008, ngày 9-8-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 472, 479-481.

Tháng 8, ngày 12

Khoảng 10 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ năm, bàn về việc phối hợp tác chiến giữa bộ đội chủ lực với dân quân du kích.

Trưa, Người đi thăm phòng ăn của các đại biểu.

Chiều, Người nói chuyện với Hội nghị về hai vấn đề: cán bộ cần nêu cao tinh thần tự kiểm điểm và phê bình; cán bộ với vấn đề thi đua ái quốc.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 339.

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 140.

Tháng 8, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ cuộc họp của Đảng đoàn Chính phủ, giải quyết một số vấn đề liên quan tới các khu.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 400.

Tháng 8, ngày 17

8 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Quốc phòng tối cao.

10 giờ, Người chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo của một số bộ và bàn về các vấn đề: tiếp tế cho miền ngược, chuẩn bị đối phó cuộc tấn công Thu - Đông của giặc, công việc của Bộ Tư pháp, việc mở thêm một số trường chuyên nghiệp, v.v..

Tối, Chủ tịch chủ toạ cuộc họp riêng của Hội đồng Quốc phòng tối cao thảo luận tiếp nguyên tắc tổ chức và quyền hạn, nhiệm vụ của Hội đồng để hôm sau trình Hội đồng Chính phủ.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 401.

Tháng 8, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội đồng Chính phủ. Trong lời phát biểu bế mạc, Người đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa việc Hội đồng Chính phủ thông qua Sắc lệnh thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 205/SL, ấn định thể lệ trục xuất ngoại kiều và những trường hợp ngoại kiều có thể bị trục xuất khỏi Việt Nam.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 401.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 19

Nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào cả nước.

Bức thư có đoạn:

"Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân.

Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hoà và thống nhất độc lập. Noi gương cách mạng 1776 của Mỹ cũng như cách mạng 1789 của Pháp, theo gót cách mạng 1911 của Tầu, nay cuộc trường kỳ kháng chiến phải tiếp tục cái nhiệm vụ vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám".

Cùng ngày, Người tiếp các nhà báo Việt Nam và nước ngoài, thông báo chính sách của Chính phủ về các vấn đề: hộ đê, thương binh liệt sĩ và tình hình chiến sự ở một số mặt trận thời gian gần đây.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 206/SL, thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao gồm: Chủ tịch Hội đồng (do Chủ tịch Chính phủ kiêm chức), Phó Chủ tịch Hội đồng (ông Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính) và bốn Uỷ viên Hội đồng là các ông Phan Kế Toại (quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ), Phan Anh (Bộ trưởng Bộ Kinh tế), Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam) và Tạ Quang Bửu (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng).

Sắc lệnh ghi rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Quốc phòng tối cao.

- Tài liệu lưu trữ của Bộ Ngoại giao. Hồ sơ 68 (1945 - 1954), t. 2.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 207/SL, cử ông Hoàng Đạo Thuý vào Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương, thay ông Nguyễn Xiển.

- Sắc lệnh số 208/SL, bãi bỏ điều 2 và điều 3 trong Sắc lệnh số 134/SL ngày 24-7-1946 về phụ cấp hằng tháng cho các uỷ viên Uỷ ban hành chính các cấp; ấn định chế độ phụ cấp mới.

- Sắc lệnh số 209/SL, quy định khoản phụ cấp chính hằng tháng cho các nhân viên công tác ở Văn phòng Chủ tịch Chính phủ và Văn phòng các Bộ trưởng thay cho những quy định trong Sắc lệnh số 137/SL, ký ngày 24-7-1946.

- Sắc lệnh số 210/SL, quy định thể lệ bầu thư ký trong Uỷ ban kháng chiến hành chính xã; ấn định thành phần và nhiệm vụ của Ban Thường vụ Uỷ ban kháng chiến hành chính xã.

- Sắc lệnh số 211/SL, ấn định cách chỉ định các uỷ viên hành chính trong Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, huyện và tỉnh tại những vùng địch tạm chiếm.

- Sắc lệnh số 212/SL, đặt xã Phúc Hoà (huyện Nghi Lộc) và xã Xuân Triều (huyện Thanh Chương) thuộc tỉnh Nghệ An.

- Sắc lệnh số 213/SL, cử người tạm kiêm chức Phó Đổng lý sự vụ Bộ Nội vụ.

- Sắc lệnh số 214/SL, cử Chánh văn phòng Bộ Tổng chỉ huy kiêm Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 215/SL, quy định những quyền lợi đặc biệt cho những người nước ngoài có đóng góp vào công cuộc kháng chiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

- Sắc lệnh số 216/SL, đặt ra "Huân chương Kháng chiến" để thưởng cho những người Việt Nam có công với quân đội hoặc các tổ chức quốc phòng và kháng chiến. Huân chương Kháng chiến có ba loại: hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba.

- Sắc lệnh số 217/SL, bổ sung điều 3 của Sắc lệnh số 180/SL ngày 30-4-1948 về việc lưu hành và tàng trữ giấy bạc Đông Dương.

- Sắc lệnh số 218/SL, sửa đổi thuế nhập nội các mặt hàng ngoại.

- Sắc lệnh số 219/SL, về việc đặt "phụ thu kháng chiến".

- Sắc lệnh số 220/SL, quy định lại giá biểu các loại tem thuế.

- Sắc lệnh số 221/SL, giao quyền cho Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Bộ Nội vụ được phép ban hành những thể lệ đặc biệt hạn chế sự tự do buôn bán trong nội địa.

- Sắc lệnh số 222/SL, cấm chỉ mọi sự buôn bán với địch.

- Sắc lệnh số 223/SL, sửa đổi Sắc lệnh số 53/SL ngày
1-6-1947 về tổ chức Ngoại thương Cục.

- Sắc lệnh số 224/SL, sửa đổi Sắc lệnh số 140/SL ngày 29-2-1948 về thành lập Cục tiếp tế vận tải.

- Sắc lệnh số 225/SL, cấp 20 triệu đồng cho Cục tiếp tế vận tải.

- Sắc lệnh số 226/SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 227/SL và 228/SL, bổ nhiệm hai Phó Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 229/SL, bổ nhiệm Giám đốc mới của Nha Khoáng chất kỹ nghệ thuộc Bộ Kinh tế, thay thế Giám đốc cũ được phép từ chức.

- Sắc lệnh số 230/SL, sửa đổi về tổ chức Tư pháp công an.

- Sắc lệnh số 231/SL, sửa đổi điều 3 của Sắc lệnh số 191/SL ngày 16-2-1947 về tổ chức Toà án binh cấp khu.

- Sắc lệnh số 232/SL, về việc ân giảm cho một số phạm nhân nhân dịp kỷ niệm lần thứ ba Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.

- Sắc lệnh số 233/SL, bổ nhiệm Tổng Giám đốc mới Tiểu học vụ, thay Giám đốc cũ được cử giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 234/SL, mở "Trường Y sĩ Việt Nam" để đào tạo cán bộ y tế cho các cơ quan dân y và quân y.

- Sắc lệnh số 235/SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý sự vụ Bộ Canh nông.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, trước ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi giải thưởng tặng một số đơn vị bộ đội ở Nam Bộ nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến. Trong số đó có một đơn vị cảm tử quân "đã hoạt động hăng hái trong trung tâm điểm Sài Gòn, mặc dầu phản động Pháp luôn luôn khủng bố, chăng rất nhiều lưới để bắt nhân viên Chính phủ ta".

- Báo Cứu quốc, số 1019, ngày 21-8-1948.

Tháng 8, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi ông Tôn Thất Phùng, nhân viên hoả xa, đã chế được một thứ thuốc chống bệnh sốt rét. "Thế là ông đã lập được công trong thi đua ái quốc". Đồng thời, Người cũng khen ngợi nhân viên hoả xa đã tận tuỵ làm việc trong hoàn cảnh khó khăn và căn dặn:

"Trong lúc toàn thể đồng bào không quản lao khổ, anh dũng kháng chiến để tranh độc lập thống nhất cho Tổ quốc, mỗi người cán bộ của ta phải thực hành khẩu hiệu Cần Kiệm Liêm Chính, chí công vô tư, thì kháng chiến nhất định mau thắng lợi".

- Báo Cứu quốc, số 1024, ngày 24-8-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 473.

Tháng 8, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhi đồng tỉnh Yên Bái. Người tỏ ý rất vui vì đã nhận được thư của các cháu báo tin nhiều bạn nhỏ đã tham gia tổ chức Đội và đã biết chữ. Người mong các cháu "trong năm nay làm cho được hai việc: gắng tổ chức 10.000 cháu và cháu nào cũng cố học cho biết chữ".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 237/SL, chuyển huyện Thuỷ Nguyên (thuộc tỉnh Kiến An) và huyện Nam Sách (thuộc tỉnh Hải Dương) trước sáp nhập vào Liên khu I, nay lại để thuộc về Liên khu III và các đơn vị tỉnh cũ. Thị xã và địa phận trường bay Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh nay sáp nhập vào thành phố Hà Nội và do Liên khu III quản lý về mọi phương diện.

- Báo Cứu quốc, số 1028, ngày 26-8-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 474.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 238/SL, bổ nhiệm ông Đặng Việt Châu làm Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu VI, thay ông Trần Hữu Dực có nhiệm vụ khác.

- Sắc lệnh số 239/SL, bổ nhiệm ông Lê Văn Giạng, nguyên Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu X, giữ chức Chánh văn phòng Hội đồng Quốc phòng tối cao.

- Sắc lệnh số 240/SL, cử ông Nguyễn Quang Tạo, trợ lý văn phòng Uỷ ban hành chính Bắc Bộ, làm Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu X, thay ông Lê Văn Giạng nhận công tác mới.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8

Nhận được báo cáo tỉnh Hà Tĩnh có mấy làng xoá xong nạn mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi và cảm ơn ông Trưởng ty Bình dân học vụ Hà Tĩnh, các cán bộ trong Ty và toàn thể nam nữ giáo viên. Người góp thêm một số ý kiến về công tác bình dân học vụ ở Hà Tĩnh, hứa sẽ có giải thưởng cho huyện nào có thành tích xoá nạn mù chữ và nhờ ông Trưởng ty "thông tri cho đồng bào trong tỉnh biết để mọi người đều cố gắng".

Trong tháng, Người còn gửi thư cho đồng bào huyện Quỳnh Côi 6) (nay thuộc huyện Quỳnh Phụ) tỉnh Thái Bình, khen ngợi các nam nữ giáo viên cùng toàn thể đồng bào Quỳnh Côi "đã làm kiểu mẫu trong cuộc đấu tranh chống giặc dốt" và khuyên đồng bào "cố gắng học thêm nữa cho tiến bộ thêm nữa".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 475-476, 477-478.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh chị em cán bộ bình dân học vụ trong dịp phát động thi đua ái quốc. Người căn dặn:

"Các chiến sĩ nam nữ BDHV 7) trước đã lập công nhiều. Tôi mong rằng trong cuộc Thi đua ái quốc, các chiến sĩ sẽ hăng hái xung phong, diệt cho hết giặc dốt".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, t.1, tr. 270.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 484.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Trại Nhi đồng nghệ thuật I. Bức thư viết:

"Gửi nhi đồng nghệ thuật,

Những bài nhạc, bài ca các cháu gửi, Bác đều nhận được cả. Bác nhớ đã trả lời rồi. Nay nhận được thư các cháu mới gửi, biết các cháu đều tham gia thi đua ái quốc, Bác rất vui lòng. Bác khuyên các cháu luôn luôn cố gắng cho tiến bộ và chúc các cháu luôn mạnh khoẻ.

Bác hôn các cháu.

Tháng 8 năm 1948

BÁC HỒ".

- Báo Thiếu niên tiền phong, số 11, tháng 5-1990.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 485.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Đoàn di cư sản xuất ấp Mỹ Lộc, Thái Nguyên đã gửi biếu Người "một chiếc võng rất đẹp".

Người mong mọi người "hăng hái xung phong thi đua ái quốc, trước để tự cấp tự túc, sau để giúp sức vào kháng chiến và xây dựng kinh tế nước nhà, sao cho Đoàn di cư sản xuất ấp Mỹ Lộc trở nên một đoàn kiểu mẫu".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn Trung đoàn 101 Thừa Thiên đã gửi biếu Người một chiếc khăn. Người mong "Trong cuộc Thi đua ái quốc, luyện quân lập công này các chú cố gắng diệt nhiều giặc, cướp nhiều súng hơn, giật cho kỳ được giải vinh dự mà tôi và Chính phủ đã sẵn sàng khen thưởng".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 483.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn ông Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính và anh chị em nhân viên bưu điện đã biếu Người một cái máy chuyển điện tự chế tạo được. "Việc đó tỏ rằng: Nếu ta cố gắng thì ta sẽ có nhiều thành công tốt đẹp". Người mong "toàn thể anh em trong Bộ Giao thông Công chính sẽ hăng hái xung phong Thi đua ái quốc làm cho mọi người và mọi việc đều tiến bộ, và làm cho Bộ trở nên một Bộ kiểu mẫu, cả về công việc và về tinh thần".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 482.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bức thư dưới đây cho bác sĩ Trần Hữu Tước:

"Gửi bác sĩ Tước,

Tôi gửi biếu chú một cái áo. Áo này là do đồng bào biếu tôi. Chú phải cẩn thận giữ sức khoẻ. Tôi đã dặn anh em địa phương, chú cần gì cứ hỏi họ. Chớ nên câu nệ. Tôi mạnh khoẻ như thường.

Chào thân ái và quyết thắng

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại gia đình bác sĩ Trần Hữu Tước.

Tháng 9, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân ngày kỷ niệm Độc lập 2-9-1948.

Người biểu dương sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân mà nhờ nó "cách mệnh thành công", "kháng chiến sẽ thắng lợi", khẳng định quyết tâm của nhân dân ta "quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng" và kêu gọi mọi người "càng gần bước thắng lợi, con đường kháng chiến càng gay go. Chúng ta càng phải động viên toàn thể lực lượng tinh thần và vật chất để đẩy tới công việc kháng chiến, và để xây đắp nền tảng cho công việc kháng chiến".

Cùng ngày, Người gửi thư cho Nam nữ chiến sĩ bình dân học vụ, khen ngợi thành tích trong ba năm đã thanh toán nạn mù chữ cho gần tám triệu người và căn dặn mọi người cố gắng thi đua xoá nhanh nạn mù chữ, tiến thêm một bước mới trong nội dung dạy đối với đồng bào đã thoát nạn mù chữ.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 486-490.

Tháng 9, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ.

Sau khi thuật lại âm mưu và thủ đoạn của địch trong cuộc tấn công lên Việt Bắc, diễn biến chiến dịch, thất bại của địch và thắng lợi của ta, Người viết: "Đó là nhờ Đức Chúa phù hộ cho nước ta mà phạt bọn thực dân hung ác. Hai là nhờ tướng sĩ ta dũng cảm, đồng bào ta hăng hái... Sau nữa là nhờ ta đã đoán trước mưu mô của địch để đề phòng sẵn. Vẫn biết địch sẽ tấn công nhiều lần nhiều nơi nữa, ta còn phải kinh qua nhiều bước gay go nữa, nhưng với sự phù hộ của Đức Chúa, với sự cương quyết của dân và quân ta, với sự giúp đỡ của những bậc lão thành như cụ, thì sớm hoặc muộn ta cũng thắng lợi".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 491-492.

Tháng 9, trước ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn linh mục Thuyết và đồng bào lương giáo xã Hưng Thái, huyện Trấn Yên (Yên Bái) đã gửi biếu Người cao và mật ong. Người mong, "với sự chỉ đạo của cụ và các vị thân hào thân sĩ, đồng bào sẽ hăng hái xung phong Thi đua ái quốc, làm cho xã Hưng Thái thành một xã kiểu mẫu".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 1037, ngày 10-9-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 493.

Tháng 9, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định cử một Phái đoàn của Chính phủ do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm trưởng đoàn vào Nam Bộ uý lạo đồng bào và chiến sĩ, kiểm tra các công việc kháng chiến và hành chính.

Cùng ngày, nhân dịp Phái đoàn Chính phủ vào Nam, Người viết bốn lá thư, gửi:

- Đồng bào Nam Bộ.

- Các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, các tỉnh, quận và xã ở Nam Bộ.

- Các tướng sĩ vệ quốc quân và dân quân du kích Nam Bộ.

- Các cháu nam nữ thanh niên và nhi đồng Nam Bộ.

Các bức thư đều nhiệt liệt ca ngợi tinh thần anh dũng kháng chiến của đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, các cháu thanh niên, nhi đồng Nam Bộ và kêu gọi mọi người hăng hái thi đua góp phần làm cho kháng chiến mau thắng lợi.

Trong ngày, Người còn gửi thư cảm ơn đồng bào Trại sản xuất Nghệ An đã gửi biếu Người màn, tất, áo. Người mong mỗi người thi đua với nhau, các trại thi đua với nhau, "như thế nhất định tiến bộ và thành công".

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Tài liệu lưu trữ của Bộ Nội vụ.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 494-501.

Tháng 9, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các cháu nhi đồng cả nước nhân Tết Trung thu.

Cuối thư, Người viết:

"Đến ngày kháng chiến thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công, Bác cháu ta sẽ cùng nhau ăn những Tết Trung thu tưng bừng vui vẻ. Vinh hoa bõ lúc phong trần. Bác chúc các cháu vui vẻ, mạnh khoẻ và gửi các cháu nhiều cái hôn Trung thu".

- Báo Cứu quốc (chi nhánh số 6), số 1042, ngày 16-9-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 502.

Tháng 9, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân kỷ niệm ba năm ngày Nam Bộ kháng chiến.

Người biểu dương quân và dân Nam Bộ trong ba năm qua mặc dầu hoàn cảnh rất khó khăn, "chẳng những giữ vững, mà còn phát triển tinh thần đoàn kết và chí khí hy sinh, mà lại ngày càng thêm mạnh, chẳng những chống cự với giặc, mà còn chiến thắng giặc", đánh những trận làm cho địch phải "kinh hồn mất vía".

Cùng ngày, trong bài viết Cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách (ký tên X.Y.Z.), đăng trên báo Sự thật số 100, Người chỉ rõ:

"Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.

Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau".

- Báo Sự thật, số 100, ngày 23-9-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 503.

Tháng 9, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị về việc tổ chức Ban quân sự Nam Bộ.

"Tên và thành phần: để phù hợp với hệ thống chung, Ban quân sự Nam Bộ gọi là Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

Nhiệm vụ và quyền hạn trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ:

1. Về làm việc, theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.Nghĩa là kế hoạch chủ trương phải đưa ra thảo luận trong Ban Thường vụ hay Bộ tư lệnh tuỳ điều kiện.

2. Chính uỷ có quyền quyết định tối hậu. Nhưng trong lúc dùng quyền ấy, cần trọng uy tín của Tư lệnh và Phó Tư lệnh và không lấn át sáng kiến chuyên môn".

- Tài liệu lưu trữ của Bộ Quốc phòng. Hồ sơ 76 (1-48 - 12-48).

- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 139.

Tháng 9, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Đảng đoàn Chính phủ để chuẩn bị nội dung cho phiên họp Hội đồng Chính phủ sắp tới.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 435.

Tháng 9, ngày 28 và ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp của Hội đồng Quốc phòng tối cao để bàn về kế hoạch thu - đông và chương trình năm 1949, việc tổ chức bộ máy kháng chiến hành chính, vấn đề tiếp tế cho Việt Bắc, kế hoạch bảo vệ cơ quan và mùa màng...

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 436.

Tháng 9, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo và thảo luận về tình hình thế giới, tình hình quân sự và chiến dịch mùa hè, tình hình nội trị, tình hình kinh tế...

Cuộc họp kéo dài suốt cả ngày cho đến 9 giờ đêm
mới nghỉ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 436.

Tháng 9

Nhận được báo cáo cụ Tạ Quang Yên ở Nam Định có tám người con, sáu người tham gia kháng chiến trong đó bốn người đã hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất xúc động. Thay mặt Chính phủ, Người viết thư khen ngợi và tặng cụ Yên tám chữ:

"Một nhà trung hiếu.

Muôn thuở thơm danh".

Người còn tặng cụ một chiếc áo của đồng bào đã biếu Người.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Cách mạng Việt Nam.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội Liên Việt huyện Mỹ Lộc (Nam Định), khen ngợi về thành tích Hội đã vận động được 114 người lầm đường trở về với Tổ quốc và mong "Hội kêu gọi toàn thể đồng bào trong huyện hăng hái xung phong Thi đua ái quốc làm cho Mỹ Lộc tiến lên về mọi mặt và trở nên một huyện kiểu mẫu".

- Tài liệu của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Nam Hà.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 508.

Cuối tháng 9, đầu tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận được thư của Hoàng thân Xuphanuvông. Thư viết bằng tiếng Pháp, đề ngày 17-5-1948.

Trong thư, Hoàng thân tỏ ý tin tưởng cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thắng lợi, và gửi đến "Vị cha già dân tộc những tình cảm trong sáng và tôn kính nhất".

- Báo Nhân dân, ngày 19-5-1988.

Tháng 10, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội đồng Chính phủ.

Phát biểu về vấn đề thi đua, Người nêu rõ: Hiện nay nhiều người vẫn chưa hiểu rõ về việc thi đua. Phong trào bình dân học vụ thi đua có kết quả là vì có nhiều cán bộ mà đều là cán bộ trong dân. Cho nên, trong việc vận động thi đua cần phải tránh xu hướng "bàn giấy", "công chức hoá". Cán bộ thi đua cũng nên đào tạo như cán bộ bình dân học vụ, lấy người địa phương mà huấn luyện. Quân đội và nhân viên các cơ quan cũng có trách nhiệm vận động thi đua. Cần có sự phối hợp thống nhất chương trình thi đua thì thi đua mới có kết quả rõ rệt.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp Hội đồng Chính phủ.

Tối, Người dự liên hoan lửa trại, xem vở kịch vui do anh em trong trung đội bảo vệ biểu diễn chào mừng Hội đồng Chính phủ.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 435.

Tháng 10, ngày 3

Hội đồng Chính phủ họp tiếp dưới quyền chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khoảng 9 giờ, Chủ tịch cùng các vị trong Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ đón Đoàn đại biểu Nam Bộ do ông Phạm Hùng làm Trưởng đoàn. Người ra tận ngoài cửa đón Đoàn, xúc động ôm hôn từng người. Sau đó, Người trực tiếp nghe ba báo cáo của Đoàn về tình hình quân sự, hoạt động của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, tình hình các đoàn thể.

Trưa, Người dự cơm thân mật với Đoàn, thăm hỏi tình hình từng đại biểu.

Chiều, Người gặp gỡ và nói chuyện với Đoàn trước khi Đoàn chia về các bộ phận để tìm hiểu công việc.

- Tài liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 437-438.

Tháng 10, ngày 4 và ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với Thường vụ Trung ương Đảng để nghe báo cáo về công tác chính quyền và soạn thảo một số nghị quyết.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 438.

Tháng 10, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 241/SL, về việc thành lập "Ban Trung ương bao vây kinh tế địch".

- Sắc lệnh số 242/SL, sửa đổi một số điểm trong Chương 1, Chương 2, Chương 3 của Sắc lệnh số 20/SL ngày 16-2-1947 về chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 243/SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Lao động.

- Sắc lệnh số 244/SL, trích ở Quỹ toàn quốc 30 triệu đồng và cấp cho Nha tín dụng sản xuất làm tiền quyên trợ (lần thứ hai).

- Sắc lệnh số 245/SL, ấn định chế độ phụ cấp mới cho các vị trong Ban Thường vụ và Thường trực Quốc hội.

- Sắc lệnh số 246/SL, ấn định chế độ phụ cấp mới cho các vị Bộ trưởng và Thứ trưởng các Bộ và Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam.

- Sắc lệnh số 247/SL, cho phép ông Siegfried Idlefeld, kiều dân Đức, được nhập quốc tịch Việt Nam và lấy tên là Nguyễn Đức Việt.

- Sắc lệnh số 248/SL, tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba cho Thiếu tướng, Cục trưởng Cục quân giới Trần Đại Nghĩa.

- Sắc lệnh số 249/SL, bổ nhiệm Khu trưởng và Khu phó Khu IX.

- Sắc lệnh số 250/SL, bổ nhiệm Liên khu phó Liên
khu I.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 15

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Chủ nghĩa cá nhân, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật,
số 101.

Người phê phán một số biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và góp ý kiến về cách thức khắc phục căn bệnh nguy hiểm đó.

- Báo Sự thật, số 101, ngày 15-10-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 509-511.

Tháng 10, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 252/SL, bãi chức Giám đốc Ban Pháp chế Bộ Lao động của ông Nguyễn Lê Giang.

- Sắc lệnh số 253/SL, chuẩn y để ông Lê Xuân Hưu từ chức Phó Đổng lý sự vụ Bộ Thương binh và Cựu binh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi liền hai bức thư "hoả tốc" cho ông Lê Văn Hiến báo tin địch đang tập trung quân và sắp nhảy dù. Người căn dặn nên có kế hoạch cho các cơ quan, nhà máy để tránh sự phá hoại của địch và yêu cầu ông Lê Văn Hiến, nhân danh Hội đồng Quốc phòng tối cao, thảo lời kêu gọi gửi quân dân cả nước chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công thu - đông của giặc.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 450-451.

Tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết "thơ riêng" gửi ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè.

Nội dung như sau:

"Chú Hoè thân mến,

Việc ân xá, ân giảm ở Thái Bình như thế là xong. Ông Giám đốc Vũ Văn Huyền đã tỏ ra rất tận tâm với chức vụ thì Chính phủ nên khen... Nhưng... vừa rồi ông ấy làm quá đáng, thì chúng ta phải phê bình để giúp ông ấy sửa chữa và tiến bộ.

Ngoài sự phê bình bằng công văn, có lẽ chú nên lấy tình nghĩa bầu bạn mà nói riêng cho ông ấy biết rõ thái độ của Chính phủ.

Kính chúc chú, ông cụ mạnh khoẻ, hỏi thăm thím và hôn các cháu".

- Tạp chí Xưa và Nay, tháng 5-1997.

Tháng 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Nguyễn Sơn Hà, đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên:

"Thưa cụ,

Tôi cảm ơn cụ đã gởi biếu tôi 1 chiếc áo mưa do cụ chế ra. Tôi mong cụ sẽ tìm cách chế áo mưa cho mau, cho nhiều, cho tốt và rẻ để làm kiểu mẫu cho các nhà công nghệ ta trong cuộc thi đua ái quốc. Đồng thời, tôi mong cụ kêu gọi giúp đỡ đồng bào Thái Nguyên hăng hái xung phong thi đua.

Chào thân ái và quyết thắng

Tháng 10 năm 1948

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại gia đình ông Nguyễn Sơn Hà.

Tháng 11, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt và các cụ trong Tỉnh hội cứu quốc Quảng Trị.

Bức thư viết:

"Kính gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt,

Các cụ đã tuổi cao tóc bạc, mà vẫn hăng hái tham gia kháng chiến. Thật là xứng đáng với bô lão đời nhà Trần. Thật là lão đương ích tráng. Một dân tộc mà già trẻ một lòng, kiên quyết như dân ta thì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất và độc lập nhất định thành công. Chúc các cụ mạnh khoẻ và sống lâu.

Chào thân ái và quyết thắng

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Cách mạng Việt Nam.

Tháng 11, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, khen ngợi đồng bào toàn huyện đã thanh toán xong nạn mù chữ và kêu gọi mọi người tiếp tục cố gắng hơn nữa để Cẩm Xuyên trở thành kiểu mẫu trên cả ba mặt trận: diệt giặc dốt, diệt giặc đói và diệt giặc ngoại xâm.

Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Bệnh tự kiêu, tự ái, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 102.

Bài báo có đoạn:

"Mỗi một người và tất cả mọi người chúng ta phải tẩy cho sạch bệnh tự kiêu, "tự ái". Đó là hai thứ bệnh rất nguy hiểm cho đạo đức và công việc.

Thang thuốc thánh để chữa bệnh này gồm có bốn vị là:

a) Thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình.

b) Cố gắng sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm.

c) Luôn luôn cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ.

d) Thực hành đoàn kết".

- Báo Sự thật, số 102, ngày 15-11-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 512-516.

Tháng 11, ngày 16

Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Hội đồng Quốc phòng tối cao để thảo luận về kế hoạch đối phó các cuộc tiến công quân sự của Pháp.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 459.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh khai mạc và chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ kiểm điểm công tác năm 1948 và bàn chương trình công tác năm 1949.

Kết thúc phiên họp, Người nhắc nhở phải chú ý vấn đề giữ bí mật các văn kiện của Nhà nước và hết sức đề cao cảnh giác.

Họp xong, Người ra về ngay mặc dầu đêm đã khuya và rét mướt.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 1, tr. 460.

Tháng 11, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 254/SL, quy định về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn, cách làm việc và sự phân công của tổ chức chính quyền nhân dân các cấp trong thời kỳ kháng chiến (Hội đồng nhân dân, Uỷ ban kháng chiến hành chính).

- Sắc lệnh số 255/SL, quy định về tổ chức và cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp trong vùng địch tạm thời kiểm soát hoặc
uy hiếp.

- Sắc lệnh số 256/SL, quy định Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, khi xét thấy cần thiết, có thể phát hành "Quân dụng phiếu" trong thời kỳ chiến tranh.

- Sắc lệnh số 257/SL, cấm chỉ mọi sự tích trữ có tính chất đầu cơ những hàng hoá cần thiết cho đời sống nhân dân.

- Sắc lệnh số 258/SL, quy định cách tổ chức công an quân pháp trong thời kỳ kháng chiến.

- Sắc lệnh số 259/SL, ấn định mức sinh hoạt phí tối thiểu cho một quân nhân mỗi ngày và mức phụ cấp hằng tháng (hưởng theo cấp bậc).

- Sắc lệnh số 260/SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Canh nông.

- Sắc lệnh số 261/SL, ấn định mức lương cho những người không phải công chức đang làm việc tại các cơ quan bộ, kỳ, khu và tỉnh.

- Sắc lệnh số 264/SL, bổ khuyết về tổ chức Toà án binh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Ninh Bình, khen ngợi về thành tích hộ đê. Người mong đồng bào "tiếp tục và phát triển chí khí xung phong ấy trong phong trào Thi đua ái quốc để:

Diệt giặc đói,

Diệt giặc dốt,

Diệt giặc ngoại xâm".

- Báo Cứu quốc, số 1123, ngày 21-12-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 517-518.

Tháng 11, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 262/SL, bổ nhiệm ông Trần Hữu Dực làm Đổng lý sự vụ Bộ Nội vụ thay ông Khuất Duy Tiến được cử làm nhiệm vụ khác.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi cụ Lê Thước, Chủ tịch Uỷ ban tăng gia sản xuất Thanh Hoá, giải thích về lý do của việc phải giảm tô và ý nghĩa của Nghị định giảm địa tô 25% của Liên bộ Nội vụ và Canh nông ngày 28-11-1946.

Bức thư có đoạn:

"Giảm địa tô 25% đã công bình và lợi cho cả điền chủ lẫn nông dân, thì không có lẽ gì mà sinh mối chia rẽ; càng không có lẽ gì mà các điền chủ lại chán nản, hoặc bỏ ruộng không cày.

Lực lượng kháng chiến chống ngoại xâm, một phần là nhờ giới "hữu sản nông dân", nhưng một phần lớn cũng nhờ giới trung nông và bần nông. Người có tiền giúp tiền, người có sức giúp sức - Thế là đại đoàn kết".

Cuối thư, Người nhờ cụ Lê Thước giải thích cho những vị điền chủ nào chưa hiểu thấu đáo.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Trung đội du kích Kim Thành (Hải Dương), khen ngợi anh em "đánh giao thông vận tải của địch rất hay, và đã thắng được nhiều trận".

Người khuyên anh em cố gắng hơn nữa, và hứa sẽ có một phần thưởng đặc biệt tặng cho đơn vị "mỗi lần phá được một đầu tàu xe lửa".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 519.

Tháng 11, ngày 30

Bài Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ký bút danh X.Y.Z.), đăng trên báo Sự thật, số 103, đề cập đến công tác kiểm tra.

Bài báo chỉ rõ: Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi, nhưng khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, việc lựa chọn cán bộ và do công tác kiểm tra. Nếu ba điều ấy làm không tốt, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích. Để công việc kiểm tra đạt kết quả, phải có cách kiểm tra và cán bộ kiểm tra. "Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra". Và "Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm".

- Báo Sự thật, số 103, ngày 30-11-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 520-521.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư và tặng áo lụa cho Cục trưởng Cục quân chính Phan Tử Lăng.

Thư Người viết: "Áo lụa này do đồng bào biếu Bác, nay Bác tặng lại chú. Chúc chú đánh giặc giỏi và tiến bộ nữa".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn cụ Kiều Hữu Hỷ 8). Bức thư có đoạn:

"Tôi cảm ơn cụ đã viết thư thăm hỏi tôi. Tôi vẫn được mạnh khoẻ và chắc cụ cũng luôn bình yên.

Tôi rất lấy làm tiếc vì chiến sự chưa được gặp cụ".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Tôn Đức Thắng, Trưởng ban vận động thi đua ái quốc Trung ương, trao đổi về công tác huấn luyện cán bộ, về cách huấn luyện, về việc khen thưởng và các danh hiệu thi đua.

Kèm theo thư, Người vẽ sơ đồ một huyện với 64 làng làm ví dụ để minh họa cụ thể các bước huấn luyện theo gợi ý của Người trong thư.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 522-525.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi Đội du kích Thủ đô và những người đã trực tiếp hoặc gián tiếp giúp sức vào cuộc tấn công đêm 4-11-1948 vào Hà Nội, thực hiện lời thách thức thi đua ái quốc với các Đội du kích Sài Gòn, Chợ Lớn, Huế, Hải Phòng...

Bức thư có đoạn:

"Hà Nội là quả tim quân sự, chính trị và kinh tế của địch. Du kích Thủ đô và Vệ quốc quân cần phải thường khuấy rối quả tim của địch cho đến ngày tổng phản công.

Du kích Thủ đô đã oanh liệt lập công lần đầu. Tôi chắc rằng từ nay du kích Thủ đô sẽ lập công nhiều hơn nữa, to hơn nữa".

- Báo Cứu quốc, số 1128, ngày 4-3-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 527.

Tháng 11

Được ông Chánh văn phòng Chủ tịch Chính phủ Phan Mỹ báo cáo là bác sĩ Đỗ Xuân Hợp gửi biếu Người một quả bóng chuyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cảm ơn.

Bức thư viết:

"Cám ơn chú đã gửi biếu tôi một quả bóng. Độ này tôi khoẻ hơn lúc ở Thủ đô. Tôi sẽ tập đánh bóng cho khoẻ hơn nữa. Các chú thi đua ái quốc kết quả như thế nào? Gửi lời thăm thím và hôn các cháu.

Chào thân ái và quyết thắng".

- Đỗ Xuân Hợp: Bác Hồ luôn theo dõi từng bước trưởng thành của tôi. In trong tập Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr. 96.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi đồng bào và nam nữ giáo viên bình dân học vụ xã Thanh Nông, huyện Lương Sơn (nay thuộc huyện Kim Bôi), tỉnh Hoà Bình đã thanh toán xong nạn mù chữ sớm nhất trong huyện.

Bức thư có đoạn:

"Tôi khuyên đồng bào cố gắng học thêm và hăng hái xung phong Thi đua ái quốc để diệt giặc đói và giặc ngoại xâm, cũng như đồng bào đã hăng hái diệt giặc dốt vậy.

Tôi lại mong đồng bào các xã khác trong tỉnh Hoà Bình cố gắng thi đua với xã Thanh Nông làm cho tỉnh ta tiến bộ vẻ vang và mau chóng".

- Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1958, t.1, tr. 278.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 526.

Tháng 12, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Cù Huy Cận, góp ý kiến rất cụ thể và chi tiết về bản "Nội quy kiểu mẫu của Quỹ nghĩa thương" 9).

Kết luận, Người viết: "Nói tóm lại: Phải làm nội quy giản đơn hơn, thì dân mới dễ hiểu, dễ làm hơn".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 528-529.

Tháng 12, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 265/SL, quy định Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội là một Uỷ ban kháng chiến hành chính thành phố, thuộc Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhân kỷ niệm hai năm Ngày toàn quốc kháng chiến.

Phân tích những diễn biến chính trị, quân sự, kinh tế giữa ta và địch qua hai năm kháng chiến, Người khẳng định:

"NĂM ĐẦU là vất vả,

NĂM THỨ HAI là tiến bộ"

và tiên đoán tình hình cuộc chiến sắp tới:

"NĂM THỨ BA sẽ là năm bước gần đến thắng lợi hoàn toàn".

Người kêu gọi toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước chớ chủ quan, khinh địch, hãy hăng hái xung phong Thi đua ái quốc để giành lấy thắng lợi cuối cùng.

Cùng ngày, Người gửi điện tới nhân dân Pháp tố cáo những hành động "khủng khiếp ngu dại" của thực dân Pháp đã gây ra trong cuộc chiến tranh "đang giày vò tâm can hai dân tộc" nhằm mục đích "lừa bịp dân tộc Pháp, chia rẽ dân tộc Việt Nam".

Bức điện một lần nữa nêu rõ quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam, và khẳng định "một quốc gia đã nhất định tranh thủ độc lập tự do cho mình thì nó phải chiến thắng, không gì cản nổi".

- Báo Sự thật, số 104, ngày 19-12-1948.

- Báo Cứu quốc, số 1129, ngày 28-12-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 530-536.

Tháng 12, trước ngày 20

Được tin Giám mục Hồ Ngọc Cẩn từ trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện chia buồn tới Toà Giám mục Bùi Chu.

Người lấy làm tiếc vì chiến sự không thể về dự đám tang của Giám mục và đã nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III thay mặt đến dự lễ và chia buồn cùng đồng bào công giáo địa phận Bùi Chu.

- Báo Cứu quốc, số 1122, ngày 20-12-1948.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 537.

Tháng 12, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào công giáo cả nước nhân ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh.

Bức thư có đoạn:

"Hôm nay, đồng bào lễ Chúa trong một bầu không khí chiến tranh, vì giặc Pháp còn đang giày xéo trên đất nước ta. Song rồi đây, thắng lợi sẽ cho chúng ta lễ Chúa long trọng hơn, trong một bầu không khí vui vẻ và tươi sáng của một nước hoàn toàn thống nhất và độc lập.

Vậy đồng bào hãy cùng tôi cầu nguyện Chúa cho ngày thắng lợi sắp tới của dân tộc. Tôi cầu nguyện Chúa luôn luôn ban phúc lành cho đồng bào".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 538.

Tháng 12

Nhận được quà biếu của gia đình ông Đỗ Đình Thiện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức thư sau:

"Gửi chú thím Thiện,

Cảm ơn chú thím đã gửi biếu một bộ áo rất đẹp, nhất là cái gì cũng tự tay mình làm lấy.

Nghe nói các cháu thêu khéo, Bác gửi lời khen các cháu và hôn các cháu.

Thân ái

12/48

BÁC".

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại gia đình ông  Đỗ Đình Thiện.

Tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn Trại dinh điền Sông Soi đã gửi biếu cam và dặn dò mọi người "phải gắng làm tròn nhiệm vụ của chiến sĩ trên mặt trận kinh tế".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 539.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng báo Xung phong, tờ báo của Nhi đồng cứu quốc tỉnh Hải Dương bài thơ dưới đây:

Bác nhận được báo "Xung phong"

Cảm ơn các cháu có lòng gửi cho.

Các cháu nghe Bác dặn dò:

Phải biết yêu nước, phải lo học hành,

Siêng làm việc, siêng tập tành,

Phải giữ kỷ luật là thành cháu ngoan.

Bác yêu các cháu muôn vàn,

Bác gửi các cháu một ngàn cái hôn.

- Bút tích bức thư. Bản gốc lưu tại Bảo tàng  Cách mạng Việt Nam.

Trong năm

Lấy bút danh Lê Quyết Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn sách nhan đề Một đoạn lịch sử Việt Nam từ 1847 đến 1947.

Đây là một tác phẩm lịch sử trình bày những "sự kiện chủ yếu trong 100 năm, kể từ khi thực dân Pháp bắt đầu thực hiện âm mưu xâm lược Việt Nam (1847) đến khi chúng đánh lên Việt Bắc (1947) trong cuộc xâm lăng lần thứ hai. So sánh hai thời kỳ - "Thời kỳ quân chủ" và "Chế độ dân chủ", tác giả chỉ rõ: "Thực dân Pháp cứ lầm tưởng rằng Việt Nam ngày nay cũng yếu ớt như Việt Nam trong thời kỳ quân chủ, chúng tưởng rằng, chính phủ dân chủ cũng nhút nhát như triều đình nhà vua".

- Lê Quyết Thắng: Một đoạn lịch sử Việt Nam từ 1847 đến 1947, Việt Bắc xuất bản. Bản sao đánh máy, lưu tại Thư viện Quốc gia.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bài thơ chữ Hán Thu dạ Báo tiệp. Nguyên văn hai bài thơ như sau:

THU DẠ

Trù hoạch canh thâm tiệm đắc nhàn,

Thu phong thu vũ báo thu hàn.

Hốt văn thu địch sơn tiền hưởng,

Du kích quy lai tửu vị tàn.

Dịch thơ:                           

ĐÊM THU

Bàn việc canh chầy mới tạm ngơi,

Gió mưa thu báo lạnh thu rồi.

Còi thu bỗng rúc vang từng núi,

Du kích về thôn, rượu chửa vơi.

BÁO TIỆP

Nguyệt thôi song vấn: - Thi thành vị?

- Quân vụ nhưng mang vị tố thi.

Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,

Chính thị Liên khu báo tiệp thì.

Dịch thơ:                         

TIN THẮNG TRẬN

Trăng vào cửa sổ đòi thơ,

- Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,

Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 110-111, 106.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 543, 544.

--------------------

Chú thích

1)  Hội nghị giáo dục toàn quốc họp từ ngày 10 đến ngày 15-7-1948 tại Việt Bắc (B.T).

2) Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai họp từ ngày 16 đến ngày 20-7-1948 tại Phú Thọ (B.T).

3)  Báo Vệ quốc quân, cơ quan tuyên truyền và giáo dục của quân đội. Báo xuất bản hằng tuần, số đầu tiên ra ngày 22-3-1947. Năm 1950, báo Vệ quốc quân và báo Quân du kích sáp nhập thành báo Quân đội nhân dân (B.T).

4) Tháng 7-1948, cụ Võ Liêm Sơn được cử đi dự Hội nghị Văn hoá toàn quốc họp ở Việt Bắc. Cụ đã được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và được Người tặng bài thơ trên (B.T).

5) Hội nghị họp trong tháng 8-1948 (B.T).

6) Huyện Quỳnh Côi là huyện đầu tiên trong cả nước đã thanh toán xong nạn mù chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư, bằng khen và tặng phẩm (B.T).

7) Bình dân học vụ (B.T).

8) Cụ Kiều Hữu Hỷ: thân sĩ Liên khu IV, thành viên của Hội giúp binh sĩ bị nạn, ở Trung Bộ ra để chờ công tác. Cụ viết thư thăm sức khoẻ Chủ tịch và Người đã viết thư trả lời.

9) Quỹ do nông dân tự nguyện đóng góp (bằng thóc) trong kháng chiến, dùng vào mục đích giúp bà con nông dân địa phương gặp khó khăn vay (B.T).

* Năm 1949 - Từ tháng 01 đến tháng 6

Tháng 1, ngày 1

Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư chúc mừng năm mới tới toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước.

Trong thư, Người nêu những nhiệm vụ cụ thể đối với chiến sĩ, đồng bào, các cụ phụ lão, cán bộ, các cháu thanh niên và nhi đồng trong năm 1949, và kêu gọi "mọi người đều ra sức thi đua với tinh thần mới, lực lượng mới, để đưa kháng chiến và kiến quốc đến nhiều thắng lợi mới và thành công mới".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 545.

Tháng 1, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh rời xã Trung Trực, huyện Yên Sơn (Tuyên Quang) chuyển về Lũng Tầu, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang).

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 87.

Tháng 1, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ bế mạc Hội nghị cán bộ Đảng lần thứ sáu15. Trong lời phát biểu, Người nêu rõ: "Hội nghị có đủ đại biểu Trung, Nam, Bắc... về dự, đó là một điểm tốt.

Những vấn đề thảo luận thì nhiều, nhưng đều hướng vào một đường đi: kháng chiến thắng lợi, xây dựng dân chủ mới để tiến tới chủ nghĩa xã hội".

Sau khi đề ra những việc khẩn yếu của Đảng phải làm trong năm về mặt quân sự, công tác chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ dưới lên trên, về chính sách kinh tế tài chính, việc chỉnh đốn các đoàn thể quần chúng, Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Đảng và đảng viên: "Đảng ví như cái máy phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng", "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến... Đồng chí ta phải học lấy bốn đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính". Người căn dặn: "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác. Các đồng chí chúng ta cần phải ra sức giữ gìn kỷ luật sắt của Đảng".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 553.

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 87.

Tháng 1, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ các đại biểu về họp Hội đồng Chính phủ.

Cùng ngày, Người tặng Bằng khen cho chị Nguyễn Thị Hợi (tức Minh Tâm) ở Mai Đà, Hoà Bình "là một cán bộ kiểu mẫu, đã tổ chức dân chúng chống giặc, lập lại và giữ vững chính quyền nhân dân ở địa phương".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 12.

- Tỉnh uỷ Hà Sơn Bình: Bác Hồ với Hà Sơn Bình, 1990, tr. 25.

Tháng 1, ngày 25

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

Đọc báo cáo trước Hội đồng, Người nêu những nhận định về tình hình và nhiệm vụ chung của năm 1948 và những nhiệm vụ của năm 1949 về các mặt: nội chính, quân sự, ngoại giao, dân sinh, văn hoá giáo dục, xã hội, ngân sách; quy định cách làm việc trong các bộ, các ban của Chính phủ.

Nhận định về tình hình năm 1948, Người chỉ rõ: "Đó là năm đầu của giai đoạn cầm cự", năm "đã đặt cơ sở vững vàng cho sự chuẩn bị tổng phản công thắng lợi của ta".

Về những nhiệm vụ trước mắt, Người nhấn mạnh vấn đề phải "củng cố đại đoàn kết", "vận động nhân dân vùng địch tạm chiếm đóng tham gia kháng chiến", "mở rộng công tác tuyên truyền, củng cố chính quyền nhân dân", "tăng cường bộ đội, phát triển dân quân, xây dựng lý luận quân sự", "xây dựng lý luận pháp lý dân chủ. Huấn luyện và đào tạo cán bộ tư pháp, thảo những bộ luật dân chủ"...

Tối, Người dự lễ truy điệu Giám mục Hồ Ngọc Cẩn vừa mới qua đời.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 13.

Tháng 1, trước ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm anh em ở Văn phòng Phủ Chủ tịch, giữa lúc anh em đang họp bàn việc tổ chức đón Tết Kỷ Sửu.

Người nói:

- Tết năm nay các chú tổ chức vui thế nào? Đã bàn mục pháo chưa? Tết phải có pháo chứ!

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Đồng chí Trưởng ban tổ chức Tết thưa:

- Ở rừng thế này, kiếm đâu ra pháo ạ.

Chủ tịch cười, chỉ tay ra rừng nứa bảo mọi người:

- Kia kìa, pháo ở rừng thiếu gì...

Sau khi Người ra về, anh em ra rừng chặt nứa, bó lại thành những ống ngắn, chuẩn bị cho đêm lửa trại liên hoan Tết.

- Cục Chính trị Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang: Những ngày được gần Bác, Hà Nội, 1970, tr. 51.

Tháng 1, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ, thảo luận các vấn đề lớn trong chương trình hoạt động năm 1949.

Tối, Người dự "bữa tiệc" tiễn các đại biểu Nam Bộ và cũng là bữa "ăn Tết" của Chính phủ. Sau đó, dự lửa trại với khá nhiều trò vui.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 13.

Tháng 1, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với Hội đồng quốc phòng tối cao, giải quyết một số vấn đề quan trọng và bí mật.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 13.

Tháng 1, ngày 28 (Ba mươi Tết)

Giao thừa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết cán bộ, nhân viên Văn phòng Phủ Chủ tịch.

Anh em đốt lửa liên hoan. Nứa bén lửa nổ lốp đốp như pháo.

Chúc Tết mọi người xong, Người lấy cam mừng tuổi mỗi đồng chí một quả và nói:

- Quà Tết của đồng bào tặng Bác, Bác biếu các chú.

- Cục Chính trị Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang: Những ngày được gần Bác, Hà Nội, 1990, tr. 52.

Tháng 1, ngày 29 (mồng Một Tết Kỷ Sửu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cán bộ, nhân viên Văn phòng Phủ Chủ tịch đến chúc Tết. Sau khi nói chuyện về tình hình thế giới, tình hình kháng chiến trong nước, Người bảo anh em:

- Các chú ra sân chơi bóng chuyền. Bác làm trọng tài cho.

Người giao hẹn:

- Bên nào thắng, Bác thưởng cho mỗi người một điếu thuốc lá thơm.

Trận đấu diễn ra sôi nổi, vui vẻ. Mãn cuộc, bên thắng xếp hàng, báo cáo:

- Thưa Bác, chúng cháu thắng ạ.

Bên thua cũng xếp hàng đứng nghiêm:

- Thưa Bác, chúng cháu cũng thắng ạ.

Cả những chiến sĩ không có chân trong hai đội và những anh em khác trong cơ quan cũng xếp hàng, thưa:

- Thưa Bác, chúng cháu cũng thắng ạ.

Người lắc đầu "chịu" anh em, rồi vui vẻ nói:

- Đúng! Năm nay là năm đại thắng lợi, không ai thua cả! Bác thưởng tất cả!

- Cục Chính trị Bộ Tư lệnh công an nhân dân vũ trang: Những ngày được gần Bác, Hà Nội, 1990, tr. 53.

Cuối tháng

Nhân đón Xuân Kỷ Sửu, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Thơ chúc Tết:

Kháng chiến lại thêm một năm mới,

Thi đua ái quốc thêm tiến tới.

Động viên lực lượng và tinh thần.

Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi.

Người người thi đua,

Ngành ngành thi đua

Ngày ngày thi đua

Ta nhất định thắng

Địch nhất định thua.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 557.

Cuối tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh Chính phủ, quân đội và đồng bào cả nước, gửi thư chúc Tết đồng bào trong vùng tạm bị địch chiếm.

Trong thư, Người bày tỏ sự cảm thông sâu sắc trước cảnh các giới đồng bào vùng tạm chiếm "phải riêng chịu sự lạnh lùng, nhục nhã, cơ cực, tức buồn dưới gót sắt lũ quỷ thực dân tàn bạo".

Bức thư có đoạn:

"Tôi rất đau lòng thương xót đồng bào tạm lâm vào hoàn cảnh ấy, vì lũ thực dân hung ác, nhưng một phần cũng vì tôi, người phụ trách số phận đồng bào, chưa lập tức xua đuổi được loài thú dữ và cứu vớt ngay đồng bào ra khỏi địa ngục thực dân".

Người trịnh trọng hứa với đồng bào: "Chính phủ và quân đội ta kiên quyết kháng chiến đến cùng, để tranh lại thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, để mau mau giải phóng đồng bào". Người thiết tha khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ, giữ vững tinh thần, giúp đỡ chiến sĩ ta, sẵn sàng để diệt địch. "Bất kỳ già trẻ gái trai, mỗi người Việt Nam ở trong vùng tạm bị địch chiếm phải là người đào mồ chôn quân địch. Sự giải phóng của đồng bào, một phần do Chính phủ ta phụ trách, mà một phần cũng ở trong tay đồng bào. Mà ngày giải phóng ấy sẽ không xa".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 560-561.

Cuối tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc Tết nhi đồng toàn quốc.

Người khen ngợi nhi đồng Việt Nam trong những năm vừa qua có nhiều tiến bộ, nhiều cháu đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc, nhiều cháu đã lập chiến công được thưởng huân chương, hàng nghìn cháu hăng hái giúp việc cho bộ đội và cơ quan, các cháu đều sốt sắng tham giaThi đua ái quốc. "Các cháu đã xứng đáng là dòng dõi Phù Đổng Thiên Vương, Trần Quốc Toản. Thật xứng đáng là nhi đồng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 562-563.

Cuối tháng

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh G.Z., nhan đề Thêu gấm và cho than đăng trên báo Sự thật, số Xuân Kỷ Sửu.

Với lối viết châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc, tác giả vạch trần tâm địa của đế quốc Mỹ đối với các bạn "đồng minh" của mình qua mẩu chuyện về hai chuyến đi Mỹ của bà Tưởng Giới Thạch. Một chuyến lúc "ông Tưởng đang có thế lực to lớn", bà ta đã được người Mỹ đưa lên chín tầng mây, "đã thêu thêm hoa trên bức gấm đã sẵn đẹp"; và một chuyến lúc ông Tưởng thất thế, người Mỹ đã đón bà ta "không kèn, không trống, không tiếp rước, không hoan nghênh, mà chỉ có lạnh lùng và nhạo báng"... "chẳng ai cho họ một chút than đỡ rét".

- Báo Sự thật, số Xuân Kỷ Sửu năm 1949.

Cuối tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của các nhà báo sau phiên họp đầu năm của Hội đồng Chính phủ 1).

Về thái độ của ta đối với Vĩnh Thuỵ, Người nói: "Ông Vĩnh Thuỵ đã trịnh trọng thề trung thành với Tổ quốc, với nhân dân và Chính phủ. Nếu ông ấy cam tâm buôn dân bán nước, thì ông ấy sẽ bị tội phản quốc như những kẻ phản quốc khác".

Được hỏi về tình hình Trung Quốc, Người nói: "Nhân dân Trung Hoa là một phần nhân dân toàn thế giới. Dân chủ Trung Hoa thắng lợi, ắt sẽ có ảnh hưởng lớn đến toàn thế giới mà Việt Nam ta là một bộ phận".

- Báo Cứu quốc, số 1164, ngày 11-2-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 558-559.

Tháng 1

Được báo cáo về thành tích của Hồng Sinh, nữ du kích xã Ngũ Lão, huyện Hoà An, Cao Bằng, một mình diệt 16 tên giặc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư khen ngợi Hồng Sinh và khuyên Hồng Sinh "cố gắng thêm, diệt cho được hai lần 16 tên giặc để lập công trong cuộc Thi đua ái quốc năm nay".

Người mong "nam nữ du kích Cao Bằng đều cố gắng thi đua, theo cho kịp Hồng Sinh, diệt cho nhiều giặc, cướp cho nhiều súng".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 554.

Tháng 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các điền chủ huyện Yên Dũng (Bắc Giang), "rất vui lòng biết rằng đồng bào điền chủ chẳng những sẵn sàng giảm địa tô 25 phần trăm, mà còn hết sức giúp tá điền cơm ăn, việc làm".

Người mong "điền chủ sẽ hăng hái xung phong Thi đua ái quốc, lãnh đạo sự cải tạo nghề nông, để tăng gia sản xuất cho nhiều. Như thế thì đã ích quốc, lại lợi dân. Như thế là chủ điền giúp cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc mau thành công".

- Báo Cứu quốc, số 1211, ngày 7-4-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 556.

Tháng 1

Nhân dịp Trường cán bộ dân quân Lê Bình bế mạc khoá 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư căn dặn: muốn đánh thắng giặc, "trước nhất và mọi việc phải dựa vào nhân dân; mỗi cán bộ và mỗi chiến sĩ dân quân du kích phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu". "Hai là phải tổ chức chặt chẽ, tập luyện hẳn hoi, chuẩn bị chu đáo. Hễ có giặc là đánh. Đánh khéo, đánh gan, đánh mạnh, đánh dai, đánh cho tan giặc".

Người hứa sẽ dành một giải thưởng đặc biệt cho cán bộ, dân quân nào lập công to nhất trong sáu tháng đầu năm 1949.

- Báo Quân du kích, số 12-13 năm 1949.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.100-101.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 555.

Tháng 1

Trong bài Đảng ta, ký bút danh Trần Thắng Lợi, đăng trên Tạp chí Sinh hoạt nội bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điểm lại lịch sử phong trào công nhân Việt Nam từ năm 1917 đến việc đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng phe đa số trong Đảng Xã hội Pháp thành lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1921 2), tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1925, thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam năm 1930, cao trào 1930-1931 và Xôviết Nghệ - Tĩnh, cao trào kháng Nhật và vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945.

Cuối bài, Người viết: "Năm nay, Đảng ta mới 19 tuổi. Nhưng suốt 19 năm ấy, năm nào cũng là một năm đấu tranh dũng cảm. Kinh qua bao nhiêu cơn sóng gió, bao nhiêu bước khó khăn, càng nhiều gian nan, Đảng ta càng nhiều rèn luyện, càng thêm vững chắc và rộng lớn. Nhờ chính sách đúng, lãnh đạo chắc, kỷ luật nghiêm, nhờ tư tưởng thống nhất, mà Đảng ta và dân tộc ta được những thắng lợi vẻ vang ngày nay.

Tuy vậy, chúng ta tuyệt đối không được tự kiêu, tự đại.

Chúng ta có nhiều thành công, nhưng chúng ta cũng còn nhiều khuyết điểm. Mỗi đồng chí ta cần phải mạnh dạn và thành thật kiểm điểm mình, kiểm điểm đồng chí mình...

Sứ mệnh của Đảng ta rất to. Công việc Đảng ta rất nhiều. Đảng đòi hỏi chúng ta phải làm trọn nhiệm vụ của đảng viên.

Không có vinh dự nào to bằng cái vinh hạnh được làm đảng viên của Đảng Cộng sản. Vì vậy, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, làm công việc gì, chúng ta cũng phải kiên quyết làm cho xứng đáng với vinh hạnh ấy".

- Tạp chí Sinh hoạt nội bộ, số 13, tháng 1-1949. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 546-550.

Tháng 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái, Phan Phác nghe báo cáo về việc thành lập cơ sở ban đầu của Không quân.

Người dặn: "Ta đã định làm cái gì thì phải làm cho được. Ban đầu chỉ nên là Ban nghiên cứu Không quân thôi".

- Hàng không dân dụng Việt Nam - Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 30.

Tháng 2, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 2/SL, về việc thành lập Trường cao đẳng kỹ thuật.

- Sắc lệnh số 3/SL, bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục Chính trị Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 4/SL, bổ nhiệm Phó Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 5/SL, bổ nhiệm Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng kiêm Chánh văn phòng Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thay ông Lê Trọng Nghĩa được cử giữ chức vụ khác.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, sau ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của Hãng thông tấn Anh Reuter gửi ngày 2-2-1949 từ Pari.

Người nêu rõ lập trường của Việt Nam là "không nhìn nhận" những cuộc đàm phán giữa cựu Hoàng đế Bảo Đại với Chính phủ Pháp và cho rằng Bảo Đại đã "tự cách chức" tối cao cố vấn của Chính phủ Việt Nam rồi.

Trả lời câu hỏi về thái độ của Chính phủ Việt Nam đối với hiện tình Trung Quốc và Chính phủ Trung Hoa tương lai, Người khẳng định: "Vì điều kiện địa lý, lịch sử, kinh tế, v.v. đã mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa như là bà con thân thích. Chính phủ Trung Hoa nào được nhân dân Trung Hoa ủng hộ thì Chính phủ Việt Nam sẽ thừa nhận chính phủ ấy".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 564-565.

Tháng 2, ngày 5

Nhận được báo cáo Hà Tĩnh có sáu huyện xoá được từ 85 đến 99% nạn mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh (nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV chuyển) khen ngợi thành tích nói trên và động viên nam nữ giáo viên cố gắng thi đua đến cuối tháng 6 cả tỉnh thanh toán xong nạn mù chữ.

Người hứa sẽ có giải thưởng đặc biệt cho tỉnh.

- Bản sao công văn lưu, ký ngày 5-2-1949 của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 2, trước ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh uỷ nhiệm Phòng Bí thư Văn phòng Chủ tịch Chính phủ gửi đăng báo lời cảm ơn đồng bào, các đoàn thể và ngoại kiều đã gửi điện, thư và quà mừng năm mới tới Người trong dịp Tết Kỷ Sửu 3).

- Báo Cứu quốc, số 1162, ngày 9-2-1949.

Tháng 2, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Đội lão quân huyện Nam Đàn mới được thành lập.

Người góp ý: Đội lão quân cần phải tổ chức quy củ và công tác thiết thực nhằm vào ba điểm chính: quân sự, kinh tế, văn hoá. "Nhiệm vụ chính của Đội lão quân là làm cho phong trào Thi đua ái quốc sôi nổi, rộng khắp, thiết thực, bền bỉ để làm cho giai đoạn cầm cự mau thắng lợi và để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tổng phản công".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 566.

- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Tháng 2, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 6/SL, ấn định việc chi thu năm 1949.

- Sắc lệnh số 7/SL, cho phép một kiều dân Trung Hoa được nhập quốc tịch Việt Nam.

- Sắc lệnh số 8/SL, cấm không được bán quá giá tối đa do Chính phủ quy định những mặt hàng cần thiết cho đời sống nhân dân và công cuộc kháng chiến.

- Sắc lệnh số 9/SL, ấn định một số nguyên tắc tổ chức doanh nghiệp quốc gia.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 2, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nam nữ học viên Trường y tá Liên khu I, căn dặn:

"Y tá chẳng những là một nghề nghiệp, mà lại là một nghĩa vụ. Người y tá chẳng những giúp chữa bệnh mà còn phải phổ biến vệ sinh. Việc giữ gìn và bồi dưỡng sức khoẻ của dân tộc, người y tá phải gánh một phần quan trọng. Vì vậy, y tá là những chiến sĩ đánh giặc ốm, để bảo vệ sự khang kiện của giống nòi. Những chiến sĩ y tá phải có chí chịu khổ, chịu khó. Phải giàu lòng bác ái hy sinh".

- Báo Cứu quốc, số 1177, ngày 26-2-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 567.

Tháng 2, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời báo France Soir về việc Bảo Đại hợp tác với Pháp, về tình hình Trung Quốc và Inđônêxia.

Nói về điều kiện để có thể thoả mãn nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, Chủ tịch chỉ rõ: "Chỉ có độc lập thật sự và thống nhất thật sự mới có thể làm thoả mãn nguyện vọng Việt Nam".

Cùng ngày, khi đọc duyệt một tờ truyền đơn địch vận của ta do Văn phòng Chủ tịch Chính phủ đệ trình, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê:

"Ta dụ quân Pháp hàng mà bảo nước nó mất, thì không khéo. Mà như vậy cũng không đúng, vì chỉ có bọn phản động Pháp chết, chứ nước Pháp dân chủ thì có chết đâu".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 568-569.

- Bản sao công văn lưu, ký ngày 28-2-1949 của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ông Hồ Đắc Thành, công tác tại Trường Pháp lý, vì đã biên soạn xong cuốn sách Trung Hoa sử lược.

Trong tháng, Người đến thăm và ân cần dặn dò đoàn đại biểu Nam Bộ ra thăm Việt Bắc trước khi đoàn trở về miền Nam. Người tặng ông Trần Văn Trà một thanh kiếm quý.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Báo Nhân dân, ngày 20-5-2002.

Tháng 3, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn giải quyết một số vấn đề cấp bách, trong đó có vấn đề đối phó với việc Pháp đưa Vĩnh Thuỵ về nước và làm rầm rộ để đánh lừa quần chúng. Một chương trình giải thích để phản động Pháp và quốc tế thấy rõ thái độ kiên quyết của Chính phủ, đồng thời cũng để nhân dân khỏi bị mắc lừa, đã được thông qua.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 28.

Tháng 3, ngày 2 và ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ, bàn các vấn đề về kinh tế, quân sự, chính trị và tài chính.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 28.

Tháng 3, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các chiến sĩ Đường số 5, khen ngợi thành tích đánh giặc của các chiến sĩ trong năm 1948 và mong rằng: "sang năm 1949,... phải cố gắng thêm, đánh nhiều hơn, mạnh hơn để lập công to hơn nữa".

- Báo Cứu quốc, số 1183, ngày 5-3-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 574.

Tháng 3, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 10/SL, cử ông Vương Kiêm Toàn giữ chức Giám đốc Nha Bình dân học vụ, thay ông Nguyễn Công Mỹ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 12/SL, về việc trừng trị tội ăn cắp các đồ quân giới, quân trang, quân dụng trong thời chiến và thời bình.

- Sắc lệnh số 13/SL, về việc Kinh Môn trước sáp nhập vào Liên khu I, nay lại để thuộc về tỉnh Hải Dương (Liên khu III), về mọi phương diện.

- Sắc lệnh số 14/SL, ấn định: kể từ ngày 22-12-1948, đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; các Bộ chỉ huy liên khu quân sự đổi tên là Bộ Tư lệnh liên khu; danh hiệu Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đổi tên là Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; Liên khu trưởng đổi tên là Tư lệnh liên khu.

- Sắc lệnh số 15/SL, hợp nhất hai xã Phú Thịnh (huyện Hưng Nguyên) và Nam Cường (huyện Nam Đàn) thành xã Nam Hưng thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

- Sắc lệnh số 16/SL, về việc xá thuế điền thổ năm 1948 cho các huyện thuộc nam phần tỉnh Bắc Ninh: Yên Thành, Gia Lâm, Lang Tài, Gia Bình, thị trấn Ngọc Thuỵ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 15

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Bệnh khẩu hiệu, ký bút danh G., đăng trên báo Cứu quốc, số 1191.

Sau khi nêu lên tầm quan trọng và vai trò của khẩu hiệu trong công tác tuyên truyền cổ động, Người phê phán một số địa phương và một số cán bộ đã mắc "bệnh khẩu hiệu", biểu hiện ở chỗ đưa ra quá nhiều khẩu hiệu khó hiểu, không thiết thực lại dài dòng.

- Báo Cứu quốc, số 1191, ngày 15-3-1949.

Tháng 3, ngày 17

Đọc lá đơn đề ngày 2-3-1949 của một công dân làm nghề dệt ở xã Hoà Xá, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây), khiếu nại về việc bị phạt vì đã đưa một số vải lên tỉnh Phú Thọ bán, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê như sau: "Giao địa phương xét lại. Nếu thật là vải họ tự dệt, không phải hàng lậu, thì phải trả lại tiền cho họ".

- Bản sao Công văn lưu của Văn phòng Chủ tịch Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 18/SL, cử Trung tướng Nguyễn Bình giữ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 19/SL, cử ông Trần Văn Trà giữ chức Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 20/SL, cử ông Phạm Ngọc Thuần giữ chức Chính trị uỷ viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 3, trước ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên Hãng Telepress, Xtanlây Harixơn (Standley Harrisson), về những câu hỏi liên quan đến điều kiện chấm dứt chiến tranh Việt Nam, quan hệ giữa Việt Nam với các nước dân chủ nhân dân, v.v., Chủ tịch tuyên bố: "Pháp công nhận Việt Nam thống nhất thực sự và độc lập thực sự thì chiến tranh sẽ lập tức chấm dứt". "Nền độc lập của Việt Nam sẽ củng cố thêm hoà bình thế giới", "Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà".

- Báo Cứu quốc, số 1201, ngày 26-3-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 577-578.

Tháng 3, trước ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn Liên đoàn lao động Liên khu I đã biếu Người một thanh kiếm 4). Người báo tin đã nhân danh Liên đoàn gửi thanh kiếm đó "làm giải thưởng cho bộ đội nào ở Nam Bộ lập chiến công to nhất trong năm nay".

- Báo Cứu quốc, số 1203, ngày 29-3-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.579.

Tháng 3, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội đồng Quốc phòng tối cao. Vấn đề lớn là việc chuẩn bị cho Hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc do Hội đồng Quốc phòng phụ trách.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 37.

Tháng 3, ngày 31

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Người đã báo cáo và phân tích tình hình thế giới và trong nước.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 37.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của nhà báo Mỹ Oantơ Bơrít (Walter Briggs) về những câu hỏi liên quan đến việc Liên hợp quốc16 can thiệp vào Việt Nam, về Khối liên hiệp Pháp, về quan hệ với Trung Quốc, v.v..

Đáp lại câu hỏi: Cụ có phải là một người cộng sản nữa không?, Người nói: "Tôi luôn luôn là một người yêu nước, tranh đấu cho độc lập và thống nhất thật sự của Tổ quốc tôi".

Trong tháng, Người còn trả lời những câu hỏi của nhà báo Mỹ Harôn Ixắc (Harold Issac) về cuộc đàm phán giữa Bảo Đại và Pháp, về triển vọng cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, về mối quan hệ Trung - Việt.

Người nêu rõ: nhân dân Việt Nam "không cần biết đến cuộc "đàm phán" ấy, nhân dân Việt Nam "chắc chắn có thể đánh quỵ thực dân"... "Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam"... "Cũng như các nước khác, tình hình Tàu sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam ít hay nhiều. Ảnh hưởng thế nào thì chỉ có tương lai mới có thể nói".

- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 575-578.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn ngành tơ sợi Trung ương (Bộ Kinh tế) đã gửi biếu Người "bộ áo dứa". Người "mong các bạn xung phong Thi đua ái quốc làm cho ngành tơ sợi phát triển cho mau, cho tốt, cho nhiều để giải quyết vấn đề mặc cho đồng bào. Đó là nhiệm vụ của các bạn trong công cuộc kháng chiến kiến quốc. Các bạn cố gắng thì quyết thành công".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Cách mạng Việt Nam.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Nguyễn Sơn Hà, đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên:

"Thưa cụ,

Tôi cảm ơn thư cụ viết ngày 10-3-1949. Tôi rất tán thành việc cụ treo giải thưởng để khuyến khích thi đua diệt giặc dốt.

Tôi sẵn sàng dành 1 giải thưởng đặc biệt cho huyện nào trong tỉnh Thái Nguyên thanh toán xong nạn mù chữ trước nhất.

Xin chúc cụ mạnh khoẻ và gửi lời chào thân ái và quyết thắng.

Tháng 3 năm 1949

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại gia đình ông Nguyễn Sơn Hà.

Tháng 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn ông Vũ Hữu Đủng, chủ hiệu chè Cộng Hoà, xã Phú Ninh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Bức thư viết:

"Cảm ơn ông đã gửi chè biếu tôi. Nước ta sĩ, nông, công, thương, binh đều phải Thi đua ái quốc. Tôi mong hiệu của ông cũng thi đua, chế chè cho ngon, cho tốt, cho nhiều, để giúp sức phát triển thương nghiệp của nước nhà. Thế cũng là ích lợi cho kháng chiến và kiến quốc".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 580.

Tháng 3 - tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc nhật báo về cái gọi là "Thoả ước 8-3"­17 ký giữa Pháp và Bảo Đại và "Nền hoà bình ở Việt Nam" do Bảo Đại đưa lại.

Người vạch rõ âm mưu của thực dân Pháp là muốn đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam một lần nữa. Vĩnh Thụy đã làm tay sai cho thực dân Pháp, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Thứ thống nhất và độc lập giả hiệu chẳng lừa bịp được ai, ngay cả  với nhân dân Pháp và dư luận thế giới. Người khẳng định: "Lúc nào quân đội thực dân Pháp hoàn toàn rút khỏi đất nước Việt Nam, thì mới có thống nhất và độc lập". "Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự".

- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 581-582.

Tháng 4, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ, thảo luận thông qua chương trình kinh tế liên Bộ, kế hoạch quân sự và việc thay đổi nhân sự.

Cùng ngày, Người gửi thư cảm ơn Công đoàn vận tải sông Thao đã gửi biếu Người một áo trấn thủ rất đẹp.

Người căn dặn: Vận tải là một việc quan trọng cho Chính phủ và nhân dân. Rất mong mọi người ra sức cố gắng và thành công.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 37.

- Báo Cứu quốc, số 1206, ngày 1-4-1949.

Tháng 4, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Lũng Tầu chuyển đến Khâu Lấu, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang).

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 88.

Tháng 4, ngày 15

Bài Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng, ký bút danh L.T. của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên báo Sự thật.

Đề cập đến vấn đề phê bình, Người phê phán quan niệm cho rằng việc phê bình công khai sẽ làm mất uy tín, mất thể diện của người được phê bình và có thể sẽ bị địch lợi dụng. Theo Người, nghĩ như thế là "ốm mà sợ thuốc", là không hiểu ý nghĩa và sức mạnh của phê bình.

Bài viết có đoạn:

"Một đoàn thể hoặc chính quyền mà che giấu khuyết điểm của cán bộ mình, là một đoàn thể hoặc chính quyền yếu ớt, thoái bộ. Đoàn thể và chính quyền có can đảm vạch rõ khuyết điểm của cán bộ mình, có phương pháp sửa chữa cho cán bộ, thì oai tín chẳng những không giảm bớt, mà lại thêm cao.

Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và của nhân dân, không có can đảm sửa chữa khuyết điểm thì những người đó không xứng đáng là cán bộ.

Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình, chưa đủ. Đồng chí, đồng sự phê bình, chưa đủ. Phải hoan nghênh quần chúng phê bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn".

- Báo Sự thật, số 109, ngày 15-4-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 584-585.

Tháng 4, trước ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời điện phỏng vấn của báo Tribune. Về câu hỏi "Khi Việt Nam đã hoàn toàn độc lập thì sẽ đối với người Pháp thế nào?", Người tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt. Nói cho rõ hơn là: Cũng như những nước độc lập khác cự tuyệt quân đội ngoại quốc đóng trên đất nước mình, nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt quân đội Pháp đóng ở Việt Nam".

- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Báo Cứu quốc, số 1222, ngày 20-4-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 586-587.

Tháng 4, trước ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Nhà in Vui Sống một cuốn lịch kèm theo lá thư:

"Gửi anh em Nhà in Vui Sống.

Lịch này là thắng lợi phẩm của anh em du kích Thủ đô biếu tôi. Tôi gửi tặng anh em. Giải thưởng này rất có ý nghĩa: mỗi ngày anh em nhớ đến chiến sĩ đang xung phong giết giặc trước mặt trận. Mỗi ngày anh em phải tiến bộ, phải tranh cho được một thắng lợi để góp vào thắng lợi chung của kháng chiến và kiến quốc.

 

Chào thân ái và quyết thắng

HỒ CHÍ MINH".

- Báo Cứu quốc, ngày 21-4-1949.

Tháng 4, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 26/SL, sửa đổi thể lệ truy tố tội quan hệ mậu dịch với vùng địch tạm chiếm.

- Sắc lệnh số 27/SL, thay đổi giá tem thuế biên lai.

- Sắc lệnh số 28/SL, cho phép ông Louis Fan, kiều dân Pháp, được nhập quốc tịch Việt Nam.

- Sắc lệnh số 29/SL, bổ sung điều 5 Sắc lệnh số 254/SL (19-11-1948) về điều kiện bầu lại Hội đồng nhân dân tỉnh.

- Sắc lệnh số 30/SL, bác đơn xin ân xá tử hình của một tội nhân.

- Sắc lệnh số 31/SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục.

- Sắc lệnh số 32/SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, hạng Nhì, hạng Ba và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho một số đoàn thể, cá nhân, cơ quan, nhân dịp kỷ niệm hai năm kháng chiến toàn quốc 5).

- Sắc lệnh số 33/SL, sáp nhập Nha Thống kê, nguyên ở Bộ Kinh tế, vào Chủ tịch phủ.

- Sắc lệnh số 34/SL, cử ông Nguyễn Thiếu Lân giữ chức Giám đốc Nha Thống kê trong Chủ tịch phủ.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 4, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn nhân Lễ tốt nghiệp khóa 4 của nhà trường. Người căn dặn:

"Các chú học rồi. Bây giờ phải hành. Trong lúc hành phải học thêm mãi.

Nhiệm vụ của các chú là: Giúp đẩy mạnh cuộc cầm cự và chuẩn bị tổng phản công.

Mong các chú hăng hái thi đua làm tròn nhiệm vụ. Và muốn làm tròn nhiệm vụ thì ngoài kỹ thuật, còn phải giữ vững đạo đức của quân nhân là: trí, nhân, tín, dũng, liêm".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Tháng 4, ngày 30

Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1-5), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc mừng đồng bào và chiến sĩ.

Sau khi phân tích ý nghĩa ngày 1-5 ở nước ta, Người nêu những nhiệm vụ chính của mọi tầng lớp nhân dân (binh, sĩ, nông, công, thương) trong giai đoạn mới: Giai đoạn đẩy mạnh cầm cự, tích cực chuẩn bị tổng phản công.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 590-592.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quân nhân học báo 6). Bức thư có đoạn: "Quân nhân phải biết võ, phải biết văn. Võ là như tay phải, văn là như tay trái của quân nhân. Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Muốn biết thì phải thi đua học". Người căn dặn:

"Học không bao giờ cùng.

Học mãi để tiến bộ mãi.

Càng tiến bộ, càng thấy phải học thêm".

Trong tháng, Người còn gửi thư tới đồng bào vùng Hà Nội, nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội chuyển.

Bức thư có đoạn:

"Đồng bào trong và ngoài Hà Nội đương đầu với giặc Pháp trước hết, lâu hơn hết.

Vì vậy, mà hy sinh, đau đớn, cực khổ nhiều hơn hết. Mà cũng trung thành, gan góc, kiên quyết hơn hết".

Người khuyên đồng bào vùng Hà Nội "trước đã cố gắng, nay cố gắng thêm; trước đã đoàn kết, nay đoàn kết hơn; tìm đủ mọi cách để phá hoại giặc, để giúp chiến sĩ ta". Và tin tưởng rằng: "Chúng ta chắc thắng, vì chúng ta quyết thắng".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 588, 589.

Tháng 4

Theo đề nghị của Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc ở tỉnh Quảng Tây với phía Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng quyết định dùng bộ đội chủ lực của quân khu Việt Bắc và bộ đội địa phương hai tỉnh Lạng Sơn, Hải Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) mở chiến dịch "Thập vạn đại sơn", giúp Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở rộng vùng căn cứ Ung - Long – Khâm7).

Người căn dặn các cán bộ chỉ huy tham gia làm nghĩa vụ quốc tế 10 chữ:

"Cẩn thận, bí mật, đoàn kết, hữu nghị, thắng lợi".

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 148.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư trả lời ông Hoàng Phan Kính và Trần Lê Hữu là cậu và dượng của Người.

Toàn văn bức thư như sau:

"Gởi Ô. Hoàng Phan Kính và Trần Lê Hữu xã Nam Liên, huyện Nam Đàn.

Kính trả lời cậu và dượng.

1- Tôi rất cảm ơn cậu và dượng đã gửi thư cho tôi.

Tôi chưa về thăm quê được, không phải vì vô tình với quê hương, nhưng vì lẽ này: trong lúc giặc Pháp đang dày xéo trên đất nước ta thì phận sự của mọi người Việt Nam là "vì nước quên nhà, vì công quên tư". Là một người đầy tớ chung của đồng bào tôi càng phải như thế. Vì vậy, tôi chưa kịp viết thư hoặc về thăm.

2- Nhân dân ta vừa đánh đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm và phá tan xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ để xây dựng một nước Việt Nam mới.

Trong lúc lật đổ những tường vách cũ kỹ và đang xây đắp ngôi lâu đài mới thì chắc chắn không khỏi có những mụn bào, gạch bể và những thứ ghét rác khác. Chúng ta sẽ quét sạch dần dần.

Trong lúc kháng chiến và kiến quốc, nhân dân ta có những thành công to lớn, vẻ vang, nhưng cũng không khỏi có nhiều khuyết điểm. Chúng ta sửa chữa những khuyết điểm ấy dần dần. Chúng ta nhất định sửa chữa được vì chúng ta quyết tâm sửa chữa.

3- Bổn phận của tôi, Chính phủ cùng các cơ quan, đoàn thể địa phương, mà cũng là bổn phận của mỗi người dân là làm những việc có ích cho đồng bào, cho Tổ quốc.

Vì vậy, tôi và Chính phủ cùng các cơ quan, đoàn thể địa phương vui lòng nhận những phê bình, sáng kiến, đề nghị của đồng bào.

Đồng thời quốc dân thì có bổn phận triệt để thi hành mệnh lệnh của Chính phủ.

4- Tôi rất mong cậu và dượng cùng các cụ phụ lão, các vị thân hào, thân sĩ thường giúp tôi và Chính phủ bằng cách gửi những phê bình, sáng kiến và đề nghị.

Tôi lại mong cậu, dượng cùng các vị đôn đốc, giúp đỡ đồng bào địa phương xung phong Thi đua ái quốc, làm cho Nam Đàn thành một huyệnkiểu mẫu, Nghệ An thành một tỉnh kiểu mẫu trong mọi công việc kháng chiến và kiến quốc.

Kính gửi cậu và dượng và nhờ cậu và dượng chuyển đến thân thích nội ngoại, các cụ các vị và đồng bào trong xã, trong huyện lời chào thân ái và quyết thắng và cho các cháu nhi đồng nhiều cái hôn.

4-1949

Cháu

HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng các con ông bà Đỗ Đình Thiện một cuốn sổ với dòng chữ viết trên trang đầu:

"Bác gửi các cháu nhiều cái hôn, và thưởng quyển này cho cháu nào thêu giỏi nhất.

4-49

BÁC HỒ".

- Hiện vật lưu tại gia đình ông Đỗ Đình Thiện.

Tháng 5, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh chị em lao động toàn quốc, biểu dương những đóng góp to lớn của công nhân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người tin tưởng: "Trong thời kỳ đẩy mạnh cuộc cầm cự, chuẩn bị tổng phản công này,... toàn thể công nhân ta sẽ Thi đua ái quốc hăng hái gấp bội. Vì công nhân ta hiểu rằng ở nước ta, dân tộc được giải phóng là bước đầu đi đến giai cấp được giải phóng".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 593-594.

Tháng 5, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương mở rộng để thảo luận các đề án chính trị, chính quyền, kinh tế, v.v. sẽ đưa ra Đại hội Đảng.

Được báo cáo: các sinh viên Trường đại học Y khoa xung phong tòng quân, Chủ tịch viết thư gửi sinh viên biểu dương tinh thần yêu nước của anh em, và hứa sẽ tạo điều kiện công tác thuận lợi để khỏi bị gián đoạn sự học tập.

Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 36/SL, về việc thành lập "Quỹ tham gia kháng chiến".

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 49.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự Hội nghị Trung ương mở rộng.

Tối, trong buổi lễ mừng sinh nhật lần thứ 60 của cụ Tôn Đức Thắng, Người tặng cụ Tôn một tên mới: Tôn Tất Thắng, rồi cùng mọi người ngâm thơ, kể chuyện vui, ra câu đối. Câu đối được Người khen hay và thưởng thuốc lá:

Giáp phải giải Pháp.

Hiến tài hái tiền 8).

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 49.

Tháng 5, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen các đơn vị bộ đội và dân quân đã đánh thắng trên mặt trận Lạng Sơn, tiêu diệt các đồn Kỳ Cùng, Đèo Khách, Ba Sơn, phá cầu Bản Trại, tiêu huỷ đoàn vận tải của địch trong trận Thất Khê.

Bức thư có đoạn:

"Trong công việc đẩy mạnh cuộc cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, các chú bắt đầu như thế là rất tốt, các chú cố gắng cứ theo đà này mà tiến lên, để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 37/SL, đặt Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội trực thuộc Chính phủ Trung ương.

- Báo Cứu quốc, số 1240, ngày 11-5-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 595.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 15

Được báo cáo Hà Tĩnh là tỉnh thanh toán xong nạn mù chữ sớm nhất trong cả nước, lại có nhiều thành tích đỡ đầu dân quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện khen ngợi toàn thể đồng bào Hà Tĩnh và biểu dương là "tỉnh kiểu mẫu thi đua".

Người mong quân và dân Hà Tĩnh sẽ đi đầu lập thêm nhiều chiến công, và các tỉnh khác, "trước hết là Thanh, Nghệ sẽ thi đua với Hà Tĩnh và sẽ thắng lợi như Hà Tĩnh".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 596.

Tháng 5, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về bản Chương, xã Hùng Lợi, huyện Yên Sơn (Tuyên Quang), sau một thời gian đi công tác đến bản Pèo (Thái Nguyên).

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 89.

Tháng 5, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Việt Bắc. Người cho biết lực lượng địch có chừng ba tiểu đoàn đánh lên Tuyên Quang, quân ta đã phát triển du kích chiến và địa lôi chiến ở dọc sông Lô làm chúng bị thương nhiều.

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 89.

Tháng 5, trước ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Pháp Action về thoả ước giữa Chính phủ Pháp và Bảo Đại, về những nhiệm vụ chính của Chính phủ Việt Nam, về lập trường của Chính phủ Việt Nam với Chính phủ Pháp...

Trả lời câu hỏi: "Báo chí Pháp nói rằng quân đội nhân dân Trung Hoa hợp tác với quân đội Việt Nam trên biên giới Việt Nam", Người đáp: "Không phải. Nói thế là sai. Toàn thế giới đều hiểu rằng bọn thực dân có thói quen bày đặt những tin tưởng tượng để che đậy thất bại của chúng. Quân giải phóng Trung Hoa đóng cách biên giới Việt Nam hai đến ba nghìn kilômét. Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ dựa vào sức mạnh của mình để giành thắng lợi".

- Báo Action, ngày 19-5-1949.

Tháng 5, trước ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ Không đề, trả lời ý kiến của một số cán bộ đề nghị tổ chức lễ mừng ngày sinh của Người.

Bài thơ như sau:

KHÔNG ĐỀ

Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà,

Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già.

Chờ cho kháng chiến thành công đã,

Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta.

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 58.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 597.

Tháng 5, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi phần thưởng cho ba nhân viên Uỷ ban kháng chiến hành chính các xã: Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Nam Dư Hạ (Hà Nội).

- Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội: Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thủ đô Hà Nội, Hà Nội, 1985, tr. 17.

Tháng 5, sau ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội và đồng sự trong Chính phủ, đồng bào các nơi, các cơ quan, đoàn thể và bộ đội, kiều bào ở nước ngoài và đồng bào trong vùng địch tạm chiếm, các cháu thanh niên và nhi đồng, đã gửi quà, gửi thư, gửi điện đến chúc mừng ngày sinh nhật của Người.

Người hẹn: "Đến ngày toàn quốc ăn mừng hoàn toàn thắng lợi, trong cuộc kỷ niệm to ấy, tôi sẽ vui vẻ tiếp đồng bào và chiến sĩ, kèm thêm một kỷ niệm nhỏ là Ngày sinh nhật của tôi".

- Báo Cứu quốc, số 1257, ngày 1-6-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 601.

Tháng 5, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 38/SL, duyệt y để thi hành, kể từ ngày 1-1-1949, Ngân sách toàn quốc tài khoá 1949.

- Sắc lệnh số 39/SL, cho phép Bộ Giao thông công chính phát hành loại tem thư in hình "Chủ tịch Hồ Chí Minh" với số lượng phát hành là 3 triệu, giá mỗi tem là 2 đồng.

- Sắc lệnh số 40/SL, về việc cử Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu I.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 44/SL, chỉ định ông Lê Viết Lượng làm Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV, thay cụ Võ Liêm Sơn đã từ trần.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 5, ngày 30

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thế nào là Cần, ký bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1255.

Sau lời khẳng định:

"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời.

Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức, thì không thành người".

Người phân tích nội dung chữ Cần, mối quan hệ giữa CầnChuyên, siêng năng kế hoạch, chỉ rõ lười biếng là kẻ địch của chữ Cần. Bằng những ví dụ sinh động, Người nêu lên kết quả to lớn nếu từng người, từng nhà và cả nước thực hiện được chữ Cần.

- Báo Cứu quốc, số 1255, ngày 30-5-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.631.

Tháng 5, ngày 31

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thế nào là Kiệm, ký bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1256.

Kiệm là thế nào? Quan hệ giữa Cần với Kiệm; Kiệm với Cần. Tiết kiệm bằng cách nào? Muốn thực hành chữ Kiệm phải chống các thói xấu nào?..., đó là những nội dung chính được bài báo đề cập tới.

Trong phần kết luận, Người viết:

"Một mặt, chúng ta thi đua Kiệm,

Một mặt, chúng ta thi đua Cần.

Kết quả Cần cộng với Kiệm là bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ ấm no, kháng chiến sẽ mau thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến trên thế giới... Cho nên người yêu nước thì phải thi đua thực hành tiết kiệm".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị dân quân toàn quốc, góp một số ý kiến về vấn đề dân quân.

Người nhấn mạnh, trong giai đoạn tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công hiện nay, du kích chiến là chính, vì vậy dân quân phải phát triển mạnh. Cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh nhân dân, vì vậy dân quân du kích cần ráo riết hoạt động và phối hợp chặt chẽ với Vệ quốc quân.

- Báo Cứu quốc, số 1256, ngày 31-5-1949.

- Báo Quân du kích, số 16-17, ngày 31-5-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 598, 636-639.

Tháng 5

Nhận được thư của Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương "xin 8 giải thưởng cho 3 tháng thi đua tích cực cầm cự", Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi bên lề bức thư:

"Chỉ có ảnh và áo. Hỏi ông Thuý 9) cần thứ gì".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng, góp ý kiến về nhiệm vụ, mục đích, tôn chỉ, đối tượng, nội dung, hình thức của báo chí, đồng thời chỉ ra những khuyết điểm về nội dung và hình thức của các báo. Người khuyên những người làm báo muốn viết báo tốt cần phải như thế nào và nhấn mạnh: "Báo chí cũng phải thực hiện khẩu hiệu:

Tất cả để chiến thắng!".

- Hồ Chí Minh: Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1981, tr.291-292.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 625-626.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cảm ơn các cháu nhi đồng Đội Thanh Bình (Tổ YS-65) đã gửi thư cho Người.

Người mong "các cháu thi đua nhau: hoạt động, lập công, học tập" và căn dặn: "Các cháu cố gắng lên. Ngày Bác cháu ta gặp nhau vui vẻ không xa đâu, vì ngày ta hoàn toàn thắng lợi sắp đến gần".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 599.

Tháng 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào các tỉnh có đê, biểu dương sự cố gắng chung của toàn thể đồng bào, nhờ đó mà mấy năm liền đã tránh được nạn lụt, vì vậy mà tránh khỏi nạn đói.

Dự báo năm nay, mực nước có thể to hơn, Người hô hào: "Đồng bào hãy xung phong thi đua góp công, góp của, đắp đê, giữ đê" để quyết thắng giặc lụt.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 600.

Tháng 6, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Khâu Lấu, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương (Tuyên Quang).

Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Thế nào là liêm, ký bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1257.

Sau khi phân tích những nội dung mới của chữ Liêm và nêu cụ thể của những hành vi bất liêm cùng tác hại của nó, bài báo có đoạn:

"Để thực hiện chữ Liêm, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên.

Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư" 10).

Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân.

"Quan tham vì dân dại". Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì "quan" dù không liêm cũng phải hoá ra Liêm.

Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm.

Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì".

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 89.

- Báo Cứu quốc, số 1257, ngày 1-6-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.640-642.

Tháng 6, ngày 2

Nhân ngày mở đầu cuộc vận động "Rèn cán chỉnh quân" (rèn luyện cán bộ chấn chỉnh quân đội), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc toàn thể quân đội, dân quân và công nhân quốc phòng hăng hái xung phong thi đua, thành công vẻ vang trong cuộc vận động này.

Người nhắc nhở: "Sự thành công phần lớn là do cán bộ, vậy cán bộ phải cố gắng hơn mọi người để làm kiểu mẫu cho mọi người".

Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Thế nào là Chính, ký bút danh Lê Quyết Thắng, đăng trên báo Cứu quốc, số 1258.

Bài báo có đoạn:

"Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là .

"Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là hoàn toàn. Một người phảiCần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn".

Người nêu những điều cần thiết để mỗi người thực hiện được chữ Chính.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 107.

- Báo Cứu quốc, số 1258, ngày 2-6-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.643-645.

Tháng 6, ngày 4

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Trung ương, lần lượt thảo luận các đề án về chính trị, dân sự, quân vận, kinh tế.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 66.

Tháng 6, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp.

Ngày kỷ niệm sinh nhật của Người (19-5), đồng bào các nơi gửi tới rất nhiều tặng phẩm. Người đem đến hội nghị một số. Giờ nghỉ, quà ít người nhiều, Người cho "bốc thăm", có người trúng bộ quần áo lụa, có người trúng gói trà, người trúng chai mật ong, v.v.. Không khí vui vẻ mà đầm ấm.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 66.

Tháng 6, ngày 6

Hội nghị Trung ương vẫn tiếp tục dưới sự điều khiển của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 66.

Tháng 6, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 46/SL, chuẩn y cho ông Lê Đức Mai thôi giữ chức Uỷ viên quân sự trong Uỷ ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ và chỉ định người thay thế chức vụ trên.

- Sắc lệnh số 47/SL, hợp nhất hai xã Phong Mai và Phong Khánh (huyện Phong Điền); hai thôn Phú Ân và Phú Lễ (huyện Quảng Điền) thành một xã lấy tên là xã Phong Chương thuộc huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên.

- Sắc lệnh số 48/SL, tạm thời tách huyện Lộc Bình ra khỏi tỉnh Hải Ninh và sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, trước ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Cứu quốc.

Về tình hình Trung Quốc, Người nêu rõ: "Tưởng Thống chế thất bại vì không được lòng dân, Giải phóng quân thắng lợi vì được toàn dân ủng hộ".

Sau khi cho biết Giải phóng quân Trung Quốc đã đánh chiếm được những căn cứ trọng yếu ở Hoa Nam như Hàng Châu, Nam Xương", v.v.. Người tiên đoán: "Cứ cái đà ấy thì cuộc nội chiến Trung Quốc có thể kết liễu trong năm nay".

- Tài liệu lưu trữ của Phòng Lưu trữ Bộ Ngoại giao.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 627-628.

Tháng 6, từ ngày 14 đến ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ để nhận định về tình hình thế giới, trong nước, bàn một số vấn đề của các Bộ: Quốc phòng, Tài chính, Nội chính...

Tổng kết phiên họp, Người nhấn mạnh:

a- Mọi việc muốn thành công cần phải trông vào dân. Các kế hoạch chương trình cần phổ biến cho dân hiểu và vận động dân tham gia.

b- Cán bộ cần chú ý giúp cho nhân viên quán xuyến công việc, trông xa và trông rộng, nhìn rõ công việc chung.

c- Trong kế hoạch thi đua của các Bộ, cần phải chú ý việc tuyên truyền trong dân...

d- Các Bộ và các cơ quan phải luôn luôn giữ bí mật, quân sự hoá, chuẩn bị tinh thần và vật chất để sẵn sàng đối phó với mọi chuyển biến của thời cuộc.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 68.

Tháng 6, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 49/SL, ban hành Bộ luật thuế trực thu áp dụng trong cả nước kể từ ngày 1-1-1950.

- Sắc lệnh số 50/SL, về tổ chức của Bộ Quốc phòng. Sắc lệnh ghi rõ nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, các cơ quan của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu và các Cục.

- Sắc lệnh số 51/SL, bổ nhiệm Đổng lý quân vụ Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 52/SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 53/SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng kiêm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh, thay ông Nguyễn Thương được cử giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 54/SL, cử ông Phan Phác, nguyên Cục trưởng Cục Quân huấn, làm Quyền Tổng tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu.

- Sắc lệnh số 55/SL, cử Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa giữ chức Giám đốc Nha Quân giới, Đại tá Vũ Văn Cẩn, giữ chức Giám đốc Nha Quân dược, Đại tá Trần Dụ Châu giữ chức Giám đốc Nha Quân nhu.

- Sắc lệnh số 56/SL, cử Đại tá Phan Tử Lăng, Cục trưởng Cục Quân chính kiêm chức Cục trưởng Cục Quân nhu, Đại tá Lê Khắc giữ chức Cục trưởng Cục Công binh, ông Hoàng Đạo Thuý giữ chức Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc.

- Sắc lệnh số 57/SL, cử vào Bộ Chỉ huy Đại đoàn chủ lực 11) các ông:

+ Vương Thừa Vũ giữ chức Đại đoàn trưởng kiêm Chính uỷ.

+ Lê Vinh Quốc giữ chức Phó chính uỷ.

+ Cao Văn Khánh giữ chức Đại đoàn phó.

- Sắc lệnh số 58/SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 241/SL ngày 12-10-1948, về việc thành lập Ban Trung ương bao vây kinh tế địch.

- Sắc lệnh số 59/SL, bãi bỏ thể lệ hiện hành về sản xuất diêm tiêu.

- Sắc lệnh số 60/SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 61/SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 62/SL, bổ nhiệm Đổng lý sự vụ Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 63/SL, quy định: trong năm 1949 vẫn giữ nguyên các biểu thuế điền thổ và các bách phân phụ thu vào thuế điền thổ và thuế môn bài đã áp dụng trong năm 1948.

- Sắc lệnh số 64/SL, sáp nhập Nha Địa chính cùng với các cơ quan phụ thuộc vào Bộ Tài chính.

- Sắc lệnh số 65, bổ nhiệm Phó Đổng lý sự vụ Bộ Tài chính.

- Sắc lệnh số 66/SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Tài chính.

- Sắc lệnh số 67/SL, định nguyên tắc kiểm soát những nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo quân giới; những hình thức xử phạt đối với những vụ vi phạm.

- Sắc lệnh số 68/SL, ấn định kế hoạch thực hành các công tác thuỷ nông và thể lệ bảo vệ các công trình thuỷ nông.

- Sắc lệnh số 69/SL, cho phép bị can nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa.

- Sắc lệnh số 70/SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba cho ông Phó Cục trưởng Cục Quân giới Nguyễn Ngọc Xuân.

- Sắc lệnh số 71/SL, bãi bỏ thuế tổng nội sản xuất.

- Sắc lệnh số 72/SL, về việc thành lập Hội đồng Tu luật (gồm 25 người).

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh, với bút danh Lê Quyết Thắng, viết xong cuốn sách Cần kiệm liêm chính 12).

Cuốn sách gồm bốn chương: Cần, Kiệm, Liêm, Chính mà nội dung đã được Người viết trong bốn bài báo: Thế nào là Cần, Thế nào là Kiệm, Thế nào là Liêm, Thế nào là Chính, lần lượt đăng trên báo Cứu quốc các ngày 30-5-1949, 31-5-1949, 1-6-1949 và 2-6-1949.

Cuối sách, tác giả viết:

"Ai chẳng muốn cho tự mình thành một người tốt,

Con cháu mình sung sướng,

Gia đình mình no ấm,

Làng xóm mình thịnh vượng,

Nòi giống mình vẻ vang,

Nước nhà mình mạnh giàu.

Mục đích ấy tuy to lớn, nhưng rất thiết thực.

Thiết thực, vì chúng ta nhất định đạt được.

Chúng ta nhất định đạt được, vì mỗi người và tất cả dân ta đều Thi đua: Cần, Kiệm, Liêm, Chính".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 629-645.

Tháng 6, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 73/SL và Sắc lệnh số 74/SL, ân giảm cho hai phạm nhân đã bị toà án binh Liên khu IX kết án tử hình xuống 20 năm khổ sai.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Franc-Tireur về quan hệ giữa Việt Nam với Pháp và Trung Quốc, về kết quả những cải cách xã hội ở Việt Nam, về bản ký kết giữa Chính phủ Pháp và Bảo Đại.

Trả lời câu hỏi: "Cụ có sợ Trung Hoa và Liên Xô sẽ thống trị Việt Nam không?", Người nói: "Chúng tôi không sợ ai cả. Không nước nào có thể thống trị được chúng tôi".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 646-647.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị thi đua ái quốc.

Sau khi biểu dương "phong trào khá cao và rộng, bộ đội, đoàn thể, cơ quan và nhân dân hăng hái, nhiều đơn vị đã có kết quả khá", Người nhận xét: "Tổ chức và lãnh đạo còn kém, không phát triển được hết sáng kiến và năng lực của quần chúng. Cơ quan lãnh đạo các cấp, các ngành, các đoàn thể, các địa phương thiếu sự phối hợp với nhau, thiếu sự tổng kết kinh nghiệm và trao đổi kinh nghiệm".

Người mong Hội nghị bàn cách sửa chữa những khuyết điểm ấy và mỗi cán bộ, mỗi người dân, mỗi ngành đều ra sức thiết thực thi đuavới tinh thần chuẩn bị tổng phản công.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 648.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng nhà thơ Tú Mỡ một cuốn sổ tay bọc da gáy vàng, chiến lợi phẩm của anh em bộ đội kính biếu Người.

Trang đầu cuốn sổ, Người viết:

"Tặng Bút Chiến Đấu 13)

Tháng 6-1949

HỒ CHÍ MINH".

- Báo Cứu quốc, ngày 12-9-1949.

Tháng 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Uỷ ban kháng chiến hành chính liên tỉnh Sơn – Lai 14) tấm ảnh chân dung Người.

Người ghi trên tấm ảnh:

"Gửi Uỷ ban kháng chiến hành chính Sơn - Lai.

Thi đua thực hiện

Cần, Kiệm, Liêm, Chính

Chí công vô tư".

Người còn gửi thư tới toàn thể đồng bào, các cơ quan, đoàn thể và cán bộ liên tỉnh Sơn - Lai.

Bức thư có đoạn: "Sơn - Lai tuy ở xa Chính phủ, nhưng lòng Chính phủ vẫn gần Sơn - Lai. Chính phủ biết rằng: Nhân dân Sơn - Lai đoàn kết và trung thành. Các cơ quan và đoàn thể gần gũi dân chúng. Các cán bộ cố gắng và tận tuỵ. Nam nữ dân quân du kích hăng hái diệt giặc lập công".

Người nhắc nhở đồng bào Sơn - Lai "đã cố gắng, nay phải cố gắng thêm, thi đua ái quốc, tăng gia sản xuất, cố gắng học tập, ra sức đánh giặc, đẩy mạnh cầm cự chuẩn bị tổng phản công. Tất cả để chiến thắng".

Cuối thư, Chủ tịch tái bút: "Tôi gửi lời riêng hỏi thăm các cụ phụ lão và hôn các cháu nhi đồng".

- Tài liệu lưu tại Bảo tàng Sơn La.

Khoảng giữa năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Chuẩn bị thu đông cho nhân dân và bộ đội, nói về những công việc phải làm ngay để nhân dân và bộ đội đủ ăn, chuẩn bị đánh giặc trong mùa thu đông này.

- Bút tích bài viết, lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 649-651.

------------------

Chú thích

1) Hội đồng Chính phủ họp phiên đầu năm ngày 25-1-1949 (B.T).

2) Đảng Xã hội Pháp tiến hành Đại hội lần thứ XVIII từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920 (B.T).

3) Trong dịp Tết Kỷ Sửu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận được 120.541 điện và thư chúc Tết, trong đó có 1.302 bức thư của đồng bào vùng địch tạm chiếm, 216 thư của những nhóm người Việt Nam đang trong hàng ngũ quân địch, 126 thư của ngoại kiều và 37 thư của các hàng binh, tù binh người Đức, Angiêri, Marốc...

Người cũng nhận được 52.122 quà Tết, trong đó có 3.010 thứ là của đồng bào vùng địch tạm chiếm.

4) Đây là thanh kiếm "Quyết thắng" do anh chị em công nhân xưởng Phan Bôi thuộc Liên đoàn lao động Liên khu I kính tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phong trào Thi đua ái quốc (B.T).

5) Được thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất: Liên hiệp công đoàn Nam Bộ.

- Được thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì: Linh mục Nguyễn Bá Luật - Phó Chủ tịch Liên đoàn Công giáo Nam Bộ; Cao Triều Phát - Cố vấn Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Chủ tịch Cao Đài mười hai phái hợp nhất; Lý Chính Thắng - cán bộ Tổng Công đoàn Nam Bộ; Nguyễn Văn Tiếp - nguyên Chủ tịch Uỷ ban hành chính Mỹ Tho.

- Được thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba: Phạm Văn Chiêu - Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh Gia Định; Bửu Doa - công an xung phong tỉnh Khánh Hoà; Công Khắc Nhân - Phó kiểm soát Bưu điện Trung ương Hà Nội; Nguyễn Ngọc Thại - thư ký Bưu điện Thuận Hoá.

- Được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất: Nhạc sĩ Văn Cao; Dương Minh Châu - Uỷ ban kháng chiến Tây Ninh; Lê Mua - liên lạc và trinh sát viên tỉnh Khánh Hoà; Đặng Đình Kỳ - công an viên thành phố Hà Nội; Trần Văn Tích - công an viên thành phố Hà Nội; Trần Kim Xuyến - nguyên Phó Giám đốc Nha Thông tin Việt Nam.

6) Tập san chuyên hướng dẫn bộ đội ta học văn hoá, do Cục Chính trị Bộ Tổng tư lệnh xuất bản mỗi tháng một kỳ tại Việt Bắc, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

7) Tên tắt của Ung Châu, Long Châu, Khâm Châu thuộc đất Quảng Tây (Trung Quốc) (B.T).

8) Vế 1, hai chữ "Giáp phải" nói lái đi thì thành "giải pháp", có nghĩa là Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải quét sạch giặc Pháp.

Vế 2 có nghĩa là Bộ trưởng Tài chính Lê Văn Hiến có tài kiếm ra nhiều tiền (B.T).

9) Tức ông Hoàng Đạo Thuý, lúc đó là Tổng thư ký Ban thi đua ái quốc Trung ương (B.T).

10) Dĩ công vi tư: lấy của công làm của riêng (B.T).

11) Tức Đại đoàn 308 - Đại đoàn Quân Tiên phong (B.T).

12) Cuốn sách do Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu I xuất bản năm 1949, Nhà xuất bản Sự thật xuất bản năm1950 (B.T).

13)  Một bút danh của nhà thơ Tú Mỡ (B.T).

14)  Sơn - Lai: Sơn La và Lai Châu (B.T).

* Năm 1949 - Từ tháng 7 đến tháng 12

Tháng 7, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 75/SL, quyết định sung vào tài sản Nhà nước "những ruộng đất và tài sản phụ thuộc tịch thu của những phạm nhân bị kết án về các tội làm phương hại đến nền độc lập quốc gia".

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 5 và ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Quốc phòng, bàn giải quyết cấp tốc một số vấn đề về quân sự và kinh tế.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 74.

Tháng 7, ngày 8

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Trở lại vấn đề thi đua ái quốc, ký bút danh H.G., đăng trên báo Cứu quốc - Chi nhánh Thủ đô, số 14.

Người nêu câu hỏi: "Đồng bào Thủ đô chúng ta có thể thi đua được không, và phải thi đua thế nào?". Trong lời giải đáp, Người nhấn mạnh: đồng bào Thủ đô cần "Thi đua giết giặc, trừ gian, phá tề. Thi đua phá hoại giặc, phá từ cái nhỏ đến cái to, phá nhà máy, công sở, các cơ quan quân sự, kinh tế, chính trị của địch và bù nhìn... thi đua gia nhập các tổ chức kháng chiến, giúp đỡ chiến sĩ"...

- Báo Cứu quốc (Chi nhánh Thủ đô), số 14, ngày 8-7-1949.

Tháng 7, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 78/SL, quy định mức giảm địa tô là 25% so với mức địa tô trước ngày 19-8-1945, và cho phép thành lập tại mỗi tỉnh một Hội đồng giảm tô để xét những việc khiếu nại về giảm tô.

- Sắc lệnh số 79/SL, ấn định chế độ thuế trực thu tạm thời áp dụng đối với ngoại kiều cho đến khi có lệnh mới.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 80/SL, chỉ định người làm uỷ viên trong Uỷ ban kháng chiến hành chính thành phố Hà Nội.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 20

4 giờ chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến tham gia họp Đảng đoàn Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 82.

Tháng 7, trước ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh Cựu binh Vũ Đình Tụng nhân Ngày thương binh 27-7. Người nhờ Bộ trưởng chuyển lời thăm hỏi tới anh em thương binh, và gửi tặng anh em một số khăn mặt, quần áo của đồng bào các nơi gửi biếu Người, cùng một tháng lương là 1.000 đồng.

- Báo Vệ quốc quân, số 4, ngày 21-7-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 652.

Tháng 7, từ ngày 21 đến ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự họp Đảng đoàn.

Ngày 21, trước khi họp, Đảng đoàn làm lễ truy điệu đồng chí Đimitơrốp. Hồ Chủ tịch, sau một phút mặc niệm, đã giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của Đimitơrốp.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 82.

Tháng 7, từ ngày 25 đến ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp tháng 7 của Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo về tình hình thế giới và trong nước, kiểm điểm sự thi hành các nghị quyết của Hội đồng Chính phủ lần trước, nghe báo cáo quyết định của Hội đồng Quốc phòng tối cao, và thảo luận các vấn đề về quân sự, nội chính, kinh tế, văn hoá, xã hội.

Người đã báo cáo về diễn biến tình hình kinh tế và chính trị của một số nước tư bản lớn như Anh, Pháp, Mỹ; việc Quân giải phóng Trung Quốc đang chuẩn bị đánh xuống Hoa Nam và Hội nghị hiệp thương chính trị Trung Quốc sắp khai mạc.

Về tình hình trong nước, Người nhận định: "Cũng như chim muốn bay cần phải có hai cánh, một cuộc chiến tranh muốn thắng lợi cần phải có hai lực lượng chính: quân sự và chính trị. Ông Tôn Tử là một người thao lược giỏi nhất trong lịch sử và trong thế giới, có nói: "Biết địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng"... Vậy ta cần phải biết Pháp, biết ta".

Sau khi dẫn lời của các chính khách Pháp và vài tờ báo thân Pháp viết về tình hình Pháp, Người kết luận: "Giặc Pháp mù quáng về chính trị, thoái bộ về quân sự. Cả hai cái cánh của họ đã yếu và chỉ có thể đưa nó đến thất bại. Bên ta: chính trị rõ ràng, quân sự tiến bộ mãi. Hai cái cánh của ta rất mạnh, ngày càng mạnh thêm, cho nên ta nhất định thắng lợi. Thêm vào đó, tình hình thế giới rất có lợi cho ta. Cánh ta đã vững, gió lại thuận chiều, quân và dân ta hãy cố gắng lên. Thắng lợi vẻ vang đã gần trước mắt".

Trong thời gian họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp đoàn đại biểu kiều bào ở Xiêm 1) do ông Nguyễn Nhu làm trưởng đoàn. Người đã nghe báo cáo về tình hình của 70.000 Việt kiều sinh sống ở Xiêm, việc chấp hành những nhiệm vụ được Chính phủ giao phó, sự hy sinh, cố gắng, tinh thần yêu nước và một số nguyện vọng của kiều bào.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 83.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị cán bộ kinh tế.

Người dặn dò: cán bộ kinh tế cần nắm thế chủ động để thắng địch, cần phát huy tinh thần xung phong, cách làm việc thi đua, cần chuẩn bị sẵn sàng kế hoạch thiết thực để tăng cường lực lượng kinh tế kháng chiến và mở mang nền kinh tế kiến quốc.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh chị em học viên lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng sắp kết thúc.

Bức thư có đoạn: "Có thể thí dụ rằng: ba tháng này các bạn đã học cửu chương. Còn muốn giỏi các phép tính thì phải học nữa, phải học mãi.

Học ở đâu, học với ai?

Học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng.

Nếu các bạn viết báo mà quần chúng hiểu, quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại, là các bạn chưa thành công".

- Báo Cứu quốc, số 1344, ngày 12-9-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 653.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Phái đoàn diệt giặc dốt, hoạt động ở Bắc Giang 2).

Người biểu dương cán bộ trong đoàn "cũng là một đội quân hậu viện", và dặn dò anh em: "Mỗi cán bộ phải là một chiến sĩ", "phải là một người tuyên truyền đắc lực về các công việc kháng chiến kiến quốc".

Người hứa sẽ có giải thưởng đặc biệt cho huyện nào thanh toán nạn mù chữ trước nhất và cán bộ nào có thành tích xuất sắc nhất.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 654.

Tháng 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho báo Quân du kích 3) nêu rõ nhiệm vụ, nội dung của tờ báo, đồng thời nhấn mạnh đến nhiệm vụ của dân quân du kích trong giai đoạn đẩy mạnh cầm cự, chuẩn bị tổng phản công.

Người mong "báo Quân du kích sẽ giúp dân quân du kích thi đua với Vệ quốc quân diệt cho nhiều giặc, cướp cho nhiều súng, lập cho nhiều công".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 655.

Tháng 8, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua chuẩn bị tổng phản công.

Sau khi nhắc lại ba mục đích của Thi đua ái quốc, kiểm điểm những kết quả đạt được sau một năm thi đua và chỉ ra những khuyết điểm chính của phong trào, Người kêu gọi:

"Hiện nay, kháng chiến đã đến thời kỳ đẩy mạnh cuộc cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, thì phong trào Thi đua ái quốc cũng phải nhằm vào mục đích ấy. Vì vậy, chương trình thi đua trong giai đoạn này vẫn là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Nhưng tiến lên một bước mạnh hơn... tất cả mọi việc ích lợi cho dân sinh quốc kế, quan hệ với kháng chiến kiến quốc, ta đều phải thi đua. Thi đua phải là toàn dân, toàn diện.

Trong các việc thi đua ái quốc, cần phải nêu rõ tinh thần cần, kiệm, liêm, chính.

Khẩu hiệu Thi đua ái quốc, hiện nay là: Tất cả để chiến thắng. Chiến thắng giặc thực dân. Chiến thắng giặc dốt. Chiến thắng giặc đói. Chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta".

- Báo Sự thật, số 116, ngày 1-8-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 656-660.

Tháng 8, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 83/SL, bổ nhiệm Đại tá Vũ Hiển, quyền Tổng tham mưu phó Quân đội quốc gia Việt Nam, giữ chức Phó Tư lệnh Liên khu III thay Đại tá Hoàng Minh Thảo cử giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 84/SL, bổ nhiệm Đại tá Hoàng Minh Thảo, Phó Tư lệnh Liên khu III, giữ chức Tư lệnh Liên khu IV thay cho Thiếu tướng Nguyễn Sơn cử giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 85/SL, bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, Giám đốc Nha Quân giới, kiêm chức Cục trưởng Cục pháo binh.

- Sắc lệnh số 86/SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý quân vụ Bộ Quốc phòng.

- Sắc lệnh số 87/SL, sửa đổi điều 2 của Sắc lệnh số 206/SL ngày 19-8-1948 về việc thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao.

"Điều 2 mới" ghi rõ: Hội đồng Quốc phòng tối cao gồm các vị:

+ Chủ tịch Chính phủ: kiêm Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao.

+ Ông Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng: Phó Chủ tịch.

+ Ông Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính: Uỷ viên.

+ Ông Phan Kế Toại, Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Uỷ viên.

+ Ông Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Kinh tế: Uỷ viên.

+ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam: Uỷ viên.

+ Ông Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Uỷ viên.

- Sắc lệnh số 88/SL, thêm vào điều 8 khoản 2 của Sắc lệnh số 131 ngày 20-6-1946 về trường hợp khám nhà khi phạm pháp quả tang; sửa đổi điều 2 khoản 2 và điều 6 của Sắc lệnh số 13 ngày 24-1-1946 về thủ tục lập biên bản khám nhà.

 - Sắc lệnh số 89/SL, bãi bỏ chức Tổng Thanh tra Bộ Canh nông.

- Sắc lệnh số 90/SL, chỉ định uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội.

- Sắc lệnh số 91/SL, bổ nhiệm Chánh Văn phòng Bộ Giao thông công chính.

- Sắc lệnh số 92/SL, cho phép ông Hoàng Thiếu Sơn thôi giữ chức Chánh Văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục.

- Sắc lệnh số 93/SL, về việc thành lập "Hội đồng xét cấp bậc cho quân nhân".

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, trước ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen về thành tích đắp đê của đồng bào huyện Quỳnh Côi (nay thuộc Quỳnh Phụ), Thái Bình.

Người mong: "Đồng bào toàn huyện sẽ theo đà hăng hái ấy mà đẩy mạnh cuộc thi đua ái quốc, chuẩn bị Tổng phản công"... "Đồng bào các huyện khác trong tỉnh phải thi đua với đồng bào Quỳnh Côi. Cố làm cho Quỳnh Côi thành một huyện kiểu mẫu và Thái Bình thành một tỉnh kiểu mẫu".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 95/SL, về việc thành lập ngạch thanh tra lao động và kiểm soát lao động.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 96/SL, ân xá tội tử hình cho một phạm nhân.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.

Nhấn mạnh đến những nhiệm vụ quan trọng của đồng bào, cán bộ và chiến sĩ trong giai đoạn mới, Người kêu gọi Vệ quốc quân và dân quân du kích phải thi đua đánh thật mạnh để tiêu hao và tiêu diệt địch, đồng bào hậu phương phải thi đua thực hiện khẩu hiệu "Tất cả để chiến thắng", cán bộ các ngành và các cơ quan phải thi đua thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Mỗi người đều phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ, mọi người đều phải thi đua làm tròn nhiệm vụ.

Nhân ngày lịch sử này, Người viết Thư gửi các cháu nhi đồng, khuyên các cháu cố gắng thi đua học tập và làm việc hơn nữa. "Ngày nay, người lớn kháng chiến để tranh lại độc lập thì mai sau các cháu phải giữ vững nền độc lập của ta".

Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Thất bại và thành công, ký bút danh Lê Nhân, đăng trên báo Sự thật, số 117. Bài báo khẳng định: "Cán bộ được dân tin, dân phục, dân yêu, thì việc gì cũng thành công".

Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 97/SL, cử ông Lê Viết Lượng giữ chức Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV, thay ông Hồ Tùng Mậu nhận công tác khác.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 663-668.

- Báo Sự thật, số 117, ngày 19-8-1949.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 20

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh 2-9, để có gạo khao thưởng bộ đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy danh nghĩa cá nhân viết thư gửi các cụ phụ lão, các vị thân sĩ, nam nữ đồng bào, nhờ mỗi gia đình bán cho Người 10 kg gạo với những điều kiện: định giá 1 kg là 50 đồng. Gia đình nghèo thì thôi. Đồng bào nào bán giúp được nhiều thì càng hay. Đã bán thì phải nhận đủ tiền, "vì tôi không muốn để đồng bào thiệt thòi nhiều quá".

Cuối thư, Người gửi lời cảm ơn trước đồng bào và tin chắc "đồng bào sẵn lòng giúp tôi việc đó".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 98/SL, ân giảm cho hai phạm nhân từ tội tử hình xuống 15 năm khổ sai.

- Sắc lệnh số 99/SL, bác đơn xin ân giảm của Đặng Trần Dương, nguyên Trưởng ty Công an tỉnh Hà Nam, đã bị Toà án Quân sự Liên khu III kết án tử hình vì đã lạm dụng chức quyền, làm những điều sai trái.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 670-671.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Nghệ An. Người cảm ơn đồng bào đã tặng Người món quà quý trong dịp sinh nhật, đó là "thành tích thi đua 4 tháng đầu năm 1949", và khuyên đồng bào thi đua phải thiết thực, bền bỉ, rộng khắp; tổ chức dân quân phải chặt chẽ, tập luyện hẳn hoi, vũ trang đầy đủ...

Cuối thư, Người mong đồng bào trong tỉnh tiếp tục thi đua và giúp nhau thi đua, "làm cho Nghệ An thành một tỉnh kiểu mẫu trong mọi công việc kháng chiến và kiến quốc".

- Tài liệu lưu trữ của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ - Tĩnh: Bác Hồ với quê hương Nghệ - Tĩnh, Vinh, 1977, tr. 38-39.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 673.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Canh nông Việt Bắc, góp một số ý kiến:

- Việc đặt kế hoạch phải sát với tình hình của địa phương và của dân.

- Thành tích sản xuất phải được tổng kết.

- Cán bộ phải đi sát dân, bám dân và đề xuất được nhiều phương pháp và biện pháp thi đua với tinh thần chiến sĩ xung phong trong mọi việc.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào tỉnh Bắc Cạn vừa được giải phóng 4).

Người nêu rõ những nguyên nhân thắng lợi và nhắc nhở quân và dân phải luôn luôn nhớ: "càng thất bại thì giặc Pháp càng liều mạng, càng dã man. Ta càng gần thắng lợi to, thì càng phải đề phòng gặp khó khăn nhiều.

Vì vậy chúng ta tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch, chớ sơ suất kiêu ngạo".

Trong tháng, Người còn viết thư cảm ơn và biểu dương cụ Nguyễn Ban ở xã An Tường, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, 77 tuổi, trong ba tháng đã học xong chữ quốc ngữ.

Bức thư có đoạn: "Cụ chẳng những làm kiểu mẫu siêng năng cho con cháu mà lại còn tỏ cái ý chí hùng mạnh của dân tộc Việt Nam... Cụ thật xứng đáng bốn chữ "lão đương ích tráng". Cụ là một tượng trưng phúc đức của nước nhà".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 661-662, 674.

Tháng 8

Sau khi thị xã Bắc Cạn được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có việc đi Ngân Sơn, qua Nà Phằc và nghỉ tối ở đấy.

Nhân dân trong huyện chưa dọn về, một số nhà đã bị giặc đốt cháy, bản làng xơ xác. Cán bộ huyện bàn nhau cất tạm chiếc lán bên đường để Người nghỉ lại qua đêm. Chỉ một ngày, lán đã dựng xong.

Trời gần tối, Chủ tịch cùng anh em trong đoàn tới nơi. Đồng chí cán bộ huyện báo cáo với Người tình hình của địa phương. Người nhắc nhở các cán bộ cần khẩn trương vận động đồng bào mau trở lại quê, khai phá ruộng vườn cũ. Chỉ vào chiếc lán mới dựng, Người hỏi:

- Nhà này của ai mới làm?

Đồng chí cán bộ huyện thưa:

- Thưa Bác, cách đây dăm ba cây số mới có lán của đồng bào. Chúng cháu dựng lán này để Bác nghỉ chân.

- Thế là các chú làm cho Bác xa dân. Chỉ có dăm ba cây số, nhân dân đi lại được, sao Bác không đi được?

Sáng hôm sau, mới sáng dậy, Người đã đi bộ vào lán thăm hỏi đồng bào.

- Chúng ta có Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1970, t. 2, tr. 64.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nữ du kích Bùi Thị Cúc xã Ba Trại, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Tây).

Người khen dân quân du kích xã Ba Trại đã anh dũng diệt giặc trong trận đánh ngày 16-2-1949, đặc biệt là "cháu Cúc đã tiêu diệt được 8 tên giặc để lập chiến công vẻ vang trong trận ấy", và mong rằng "toàn thể nam nữ du kích trong tỉnh sẽ hăng hái thi đua diệt giặc lập công".

Người thưởng cho Bùi Thị Cúc một chiếc khăn tay và hứa sẽ có một giải thưởng đặc biệt gọi là Giải thưởng Chuẩn bị tổng phản công cho chiến sĩ và đội du kích nào lập công to nhất từ nay đến cuối năm.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 672.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị tình báo. Thư có đoạn:

"1. Tình báo là tai mắt của quân đội. Tai phải nghe rõ, mắt phải thấy rõ tình hình của địch thì ta mới dễ đánh thắng địch.

2. Người xưa nói: "Biết địch, biết ta, thì trăm trận ta thắng cả trăm". Biết địch là nhiệm vụ của tình báo.

3. Bên ta phải biết rõ bên địch, nhưng đồng thời không để địch biết ta. Vì vậy, nhiệm vụ của tình báo là hết sức giữ kín tình hình và tin tức của ta, không cho lọt đến địch.

Tình báo là một khoa học. Người làm tình báo ắt phải có bốn đức tính: bí mật - cẩn thận - khôn khéo - kiên nhẫn".

- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh. H3-C7/14.

- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 323.

Tháng 9, ngày 2

Tối, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm anh chị em cán bộ, nhân viên Văn phòng Trung ương Đảng.

Người bước vào hội trường, ngồi xuống trước rồi bảo mọi người ngồi xuống theo. Các cán bộ, thanh niên khoẻ mạnh, nhanh chân đến trước vây xung quanh Chủ tịch. Các chị, các cô vì có các cháu nhỏ đi theo không chen kịp, đành ngồi phía sau hội trường.

Khi được báo cáo là anh chị em đã đến đủ, Người nói:

- Để ổn định trật tự cho buổi "diễn thuyết" được thành công, các cô các chú phải ngồi đúng vị trí của mình. Riêng diễn giả được phép thay đổi chỗ.

Người đứng dậy đi xuống cuối hội trường hô:

- Đằng sau, quay!

Rồi bắt đầu nói chuyện ngay.

Thế là các chị, các cô, các cháu nhỏ lại được gần Người nhất.

Trong ngày, Chủ tịch trực tiếp đánh máy trả lời tám câu hỏi của phóng viên báo Praxa Thipatay (Thái Lan), ông Naiut Thorn Pholkul, về tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Về mối quan hệ Việt - Thái, Người tuyên bố: "Bao giờ Việt Nam cũng cần thân thiện với nước Thái, và nước Thái thân thiện với Việt Nam, vì chúng ta là bà con láng giềng".

- Tài liệu lưu trữ của Viện Hồ Chí Minh.

- Tài liệu lưu trữ của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 675-677.

Tháng 9, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo về tình hình thế giới trong hai tháng 7 và 8, báo cáo của các Bộ: Quốc phòng, Ngoại giao, Giáo dục, Nông nghiệp, v.v. và thảo luận một số vấn đề liên quan tới các Bộ trong chương trình công tác tháng 9.

Kết thúc Hội nghị, Chủ tịch nhắc lại những chỉ thị về việc chuẩn bị thu - đông và nhắc Hội đồng lưu ý sự biến chuyển nhanh chóng của thời cuộc để chuẩn bị đối phó với khó khăn, cũng như để nắm kịp thời cơ giành chiến thắng.

Trong thời gian họp, Người cùng đại biểu Quốc hội và Chính phủ tiếp Đoàn đại biểu kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ do cụ Lê Đình Thám dẫn đầu, nghe Đoàn báo cáo tình hình kháng chiến ở địa phương và nhận tặng phẩm của đồng bào, các cơ quan và đoàn thể địa phương.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 106.

Tháng 9, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 102/SL, về việc thành lập Hội đồng Giáo dục.

- Sắc lệnh số 103/SL, quy định Nhà máy phốt phát Nghệ An là một doanh nghiệp quốc gia.

- Sắc lệnh số 104/SL, cấp thêm cho Cục tiếp tế vận tải 50 triệu đồng để dùng vào việc tiếp tế.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng bằng khen cho cán bộ công nhân Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo 5) về thành tích đã sản xuất được những máy móc cần thiết cho kháng chiến.

- Báo Hà Nội mới, ngày 18-4-1990.

Tháng 9, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 105/SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 246/SL ngày 14-10-1948 và ấn định lại mức phí cấp hằng tháng của các vị trong Chính phủ kể từ ngày 1-8-1949.

- Sắc lệnh số 106/SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 245/SL ngày 14-10-1948 và ấn định lại mức phí cấp hằng tháng của các vị trong Ban Thường trực Quốc hội kể từ ngày 1-8-1949.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 18

Tối, từ Khâu Lấu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thuyền xuôi theo sông Đáy về huyện lỵ Sơn Dương để thăm lớp học của cán bộ kháng chiến.

Trên sông, Người làm bài thơ:

ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG ĐÁY

Dòng sông lặng ngắt như tờ,

Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.

Bốn bề phong cảnh vắng teo,

Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan.

Lòng riêng riêng những bàn hoàn,

Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng.

Thuyền về, trời đã rạng đông,

Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 91.

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 59.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.690.

Tháng 9, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị Trung du 6). Trong thư, Người nêu rõ ý nghĩa của Hội nghị, phân tích tầm quan trọng về quân sự và kinh tế của các tỉnh trung du, biểu dương "đại đa số cán bộ, nhất là cán bộ Bắc Ninh, tinh thần vững chắc, tận tuỵ làm việc, hiểu các công tác, đi sát với dân", đồng thời chỉ ra những khuyết điểm ở nhiều địa phương và yêu cầu các cán bộ phải kiên quyết tẩy trừ và giúp đồng chí mình tẩy trừ những khuyết điểm đó. "Phải làm sao cho các tỉnh trung du thành một phòng tuyến kiên cố của ta, một nghĩa địa mênh mông của giặc".

-  Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 678-679.

Tháng 9, ngày 23

Lời cảm ơn đồng bào của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đồng bào đã bán gạo rẻ giúp Người khao thưởng bộ đội nhân dịp Quốc khánh, đăng trên báo Sự thật, số 119. Người viết:

"Sự thực là đồng bào khao thưởng bộ đội, chứ không phải riêng tôi.

Một lần nữa nhân danh tôi và nhân danh bộ đội, tôi trân trọng cảm ơn đồng bào, và gửi đồng bào lời chào thân ái và quyết thắng".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 108/SL, bãi bỏ Hội đồng sản xuất kỹ nghệ thuộc Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 109/SL, bổ sung về việc truy tố những vụ vi phạm thể lệ mậu dịch.

- Sắc lệnh số 110/SL, về việc thành lập Ban căn cứ địa Việt Bắc.

- Báo Sự thật, số 119, ngày 23-9-1949.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 680.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các đồng chí Liên khu IV, nhân dịp ông Nguyễn Chí Thanh vào công tác.

Bức thư có đoạn:

"Xem lại những công việc trong thời kỳ vừa qua, các đồng chí đã lượm được khá ưu điểm:

Như nội bộ đoàn kết hơn, Bình - Trị - Thiên được chấn chỉnh hơn, sự lãnh đạo của đoàn thể tuy chưa được đều nhưng đã bao khoát hơn trước.

Nhưng vẫn còn nhiều khuyết điểm như:

- Còn nhiều xu hướng cá nhân, bản vị, địa phương.

- Sự lãnh đạo về chính quyền, nhất là về kinh tế, không được quán xuyến.

- Dân vận chưa được đầy đủ, Mặt trận chưa đoàn kết được tất cả thân sĩ, trí thức.

- Một số cán bộ chưa thực hiện Cần Kiệm Liêm Chính, thậm chí hủ hoá. Phần nhiều khuyết điểm do đó mà ra.

- Chưa vận dụng được cả nhân lực, vật lực, tài lực để phụng sự kháng chiến, nhất là ở Thanh Hoá".

Cuối thư, Người mong các đồng chí Liên khu IV kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm và phát huy những ưu điểm nói trên, "thì mọi việc sẽ thành công".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 682-683.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhi đồng nhân dịp Tết Trung thu kháng chiến lần thứ ba. Trong thư, Người viết:

"Trung thu năm nay, Bác cũng chưa có quà gì biếu các cháu. Nhưng chắc rằng năm sau, các cháu sẽ có Tết Trung thu linh đình là Tết Trung thu kháng chiến hoàn toàn thắng lợi.

Bác gửi các cháu nhiều cái hôn".

Trong tháng, Người còn viết Thư gửi các Hội mẹ chiến sĩ Liên khu IV, báo tin Người vẫn thường nhận được thư, quà của các cụ, các bà gửi cho, và được biết các cụ, các bà hăng hái thi đua ái quốc làm kiểu mẫu cho con cháu, vẫn cố gắng học chữ, học làm tính, thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. "Thật là đáng kính, đáng quý".

Người mong rằng: "khắp cả nước, các liên khu, các tỉnh, các làng, ở đâu cũng có Hội mẹ chiến sĩ. Còn các chiến sĩ thì phải hiếu với mẹ nuôi bằng cách thi đua giết nhiều giặc, cướp nhiều súng, lập nhiều công làm cho rạng danh và đền bồi công ơn của các bà mẹ chiến sĩ".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 681, 689.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi sinh viên Trường đại học Y khoa Việt Bắc.

- Báo Cứu quốc, ngày 28-9-1949.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và ghi trên trang đầu cuốn Sổ Vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương 7) lời dạy:

"Học để làm việc,

làm người,

làm cán bộ.

Học để phụng sự đoàn thể,

  "    giai cấp và nhân dân,

  "    " Tổ quốc và nhân loại.

Muốn đạt mục đích, thì phải

Cần, kiệm, liêm, chính,

Chí công, vô tư.

                                                                                                                  HỒ CHÍ MINH

                                                                                 9-49".

- Bút tích ghi trong Sổ Vàng của Trường, lưu tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bức thư dưới đây gửi cụ Mai Công Uyển, xã Hiệp Hoà, huyện Đại Từ (Thái Nguyên):

"Thưa cụ,

Cụ có lòng tốt biếu tôi 20 kilô gạo để khao thưởng bộ đội. Tôi rất cảm ơn cụ. Nhưng tôi xin cụ phải nhận số tiền là 100 đồng. Nếu cụ không chịu nhận tiền, thì tôi không dám nhận gạo của cụ. Vì lần này tôi nhờ đồng bào bán rẻ, chứ không phải quyên của đồng bào. Cụ sẵn lòng giúp thì xin để lần khác, cụ sẽ ủng hộ.

Chúc cụ mạnh khoẻ và sống lâu.

                                                                 Chào thân ái và quyết thắng

                                                                      Tháng 9 năm 1949

                                                                           HỒ CHÍ MINH".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 685.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài Việt Bắc quyết thắng, chỉ ra những điều kiện Việt Bắc có thể chiến thắng địch. Song, như Người nói, "điều kiện tuy sẵn, nhưng phải chuẩn bị đầy đủ mới đánh thắng được".

Chuẩn bị thế nào? Bài viết phân tích và đề ra những nhiệm vụ cụ thể của ba lực lượng quân sự Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân du kích, của "chiến sĩ nhà nông" trên mặt trận sản xuất nông nghiệp.

Làm được những việc đó, như kết luận của bài viết, "Việt Bắc quyết thắng, và Việt Bắc nhất định thắng".

- Bút tích lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 686-688.

Tháng 10, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để xem xét tình hình thế giới và trong nước tháng 9 vừa qua, nghe báo cáo của các Bộ: Quốc phòng, Giao thông công chính, ra nghị quyết về vấn đề tổ chức các Bộ; công tác thanh tra và bàn chương trình công tác tháng 10.

Trong thời gian họp, Chủ tịch cùng Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ đã tiếp Đoàn đại biểu Nam Bộ do ông Phạm Hùng dẫn đầu, nghe Đoàn báo cáo về tình hình kháng chiến ở Nam Bộ.

Nói chuyện với Đoàn, Người khen ngợi các đại biểu trong Đoàn, nhất là những hy sinh to lớn, những cố gắng bền bỉ của quân dân Nam Bộ trong bốn năm kháng chiến và sự đoàn kết chặt chẽ của toàn dân trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Người đã mời Đoàn dự bữa cơm thân mật.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 111/SL, cử uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 116.

Tháng 10, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 117.

Tháng 10, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với Hội đồng Quốc phòng tối cao.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 118.

Tháng 10, ngày 13

Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các võ quan và chiến sĩ Đội quân Bắc Phi độc lập 8), đăng trên báo Cứu quốc, số 1370.

Người cảm ơn về những lời chúc mừng của họ nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và chúc Đội quân Bắc Phi độc lập lập được nhiều chiến công oanh liệt.

Người tin chắc: với sự giúp đỡ của những người bạn Việt Nam, với lòng quả cảm sẵn có và với kỷ luật sắt của họ, họ sẽ xứng đáng với danh hiệu vẻ vang của quân đội Bắc Phi độc lập. "Nước Việt Nam được giải phóng sẽ giúp cho sự giải phóng nước các bạn được dễ dàng và cuộc chiến thắng của Việt Nam sẽ giúp cho các bạn chiến thắng sau này".

Cùng ngày, số báo trên còn đăng điện trả lời của Chủ tịch về 21 câu hỏi của A.Xtinlơ (A.Steele), phóng viên báo Mỹ New York Herald Tribune, về các vấn đề liên quan đến lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết "cuộc xung đột" giữa "Việt Minh và Pháp"; về sự giúp đỡ "Cộng sản Trung Hoa"...

Trả lời câu hỏi: Liên hợp quốc có thể giúp ích gì một cách có hiệu quả để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam không?. Người nói: "Có, Liên hợp quốc có thể buộc Pháp phải tôn trọng những hiến chương của mình và bắt Pháp phải rút quân đội khỏi Việt Nam.

Tôi muốn hỏi nhân dân Mỹ một câu này, và mong ông cho biết những câu trả lời của nhân dân Mỹ: Nếu Pháp hoặc một ai khác xâm phạm nước Mỹ, giết người đốt phá thành phố và làng mạc Mỹ, với mục đích là để bắt Mỹ làm nô lệ, thì nhân dân Mỹ sẽ đối phó như thế nào?".

- Báo Cứu quốc, số 1370, ngày13-10-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 691-697.

Tháng 10, ngày 15

Bài Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 120.

Người trình bày ngắn gọn, súc tích những vấn đề cơ bản về bản chất dân chủ của Nhà nước ta (mục Nước ta là nước dân chủ), về nội dung của công tác dân vận (mục Dân vận là gì?), về những người có trách nhiệm làm công tác dân vận (mục Ai phụ trách dân vận?) và về những phẩm chất phải có ở những người phụ trách dân vận (mục Dân vận phải thế nào?).

Bài viết kết luận: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công".

- Báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 698-700.

Giữa tháng

Được tin giặc Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm, xâm phạm đất Thánh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Công giáo, vạch rõ âm mưu thâm độc của giặc định bôi nhọ đồng bào, làm mọi người hiểu lầm đồng bào Công giáo phản Tổ quốc, theo thực dân, nhằm gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn.

Người thông báo: "Chính phủ đang phái quân đội đến đánh giặc thực dân, để cứu đồng bào Công giáo vùng này khỏi xiềng xích của bọn ác quỷ" và yêu cầu đồng bào "cần phải ra sức giúp đỡ bộ đội ta về mọi mặt để đánh tan lũ giặc, để cứu mình, cứu nước".

Cuối thư, Người viết: "Tôi cầu nguyện Đức Chúa phù hộ đồng bào giữ vững tinh thần ái quốc, đủ sức chống lại giặc Pháp, đặng làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng là:

Phụng sự Đức Chúa

Phụng sự Tổ quốc".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 701-702.

Tháng 10, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển đến ở Hang Bòng, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 92.

Tháng 10, ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 114/SL, cử Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Chính trị, giữ chức Chính trị uỷ viên Liên khu III thay ông Lê Quang Hoà được cử giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 115/SL, chỉ định các ông: Phạm Văn Bạch làm Chủ tịch, Phạm Ngọc Thuần làm Phó Chủ tịch, Nguyễn Bình làm Uỷ viên quân sự, các ông Ca Văn Thỉnh, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Thành Vinh và Kha Vạng Cân làm Uỷ viên trong Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ.

- Sắc lệnh số 116/SL, cử ông Lê Liêm, Cục trưởng Cục Dân quân, kiêm chức Cục trưởng Cục Chính trị thay Thiếu tướng Văn Tiến Dũng.

- Sắc lệnh số 117/SL, sửa đổi khoản 3, điều 7 của Sắc lệnh số 131/SL ngày 20-7-1946, ghi rõ bốn trường hợp đặc biệt các viên chức có thẩm quyền được phép vào nhà tư nhân ban đêm.

- Sắc lệnh số 118/SL, thành lập Uỷ ban xí nghiệp tại các xí nghiệp nhà nước.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 119/SL, cử ông Dương Quốc Chính giữ chức Chính trị uỷ viên Bộ Tư lệnh Nam Bộ thay ông Phạm Ngọc Thuần chuyển công tác khác.

- Sắc lệnh số 120/SL, đặt một Ban Cố vấn bên cạnh Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, gồm các ông: Cao Triều Phát, Nguyễn Văn Hưởng, Phạm Văn Chương và Lê Duẩn.

- Sắc lệnh số 121/SL, sửa đổi điều 4 của Sắc lệnh số 33/SL ngày 22-3-1946, về việc chuẩn định cấp bậc, phù hiệu, cấp hiệu và quân phục cho quân đội.

- Sắc lệnh số 121/SL, ấn định các cấp được quyền chuẩn định cấp bậc cho quân nhân bậc binh, bậc sĩ, bậc uý; các bậc tá đến cấp trung tá và từ cấp đại tá trở lên.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 122/SL, bổ sung điều 1 của Sắc lệnh số 26/SL ngày 25-4-1949, về việc truy tố những vụ vi phạm thể lệ mậu dịch.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 123/SL, quy định điều kiện những người được phép chữa bệnh theo Tây y 9).

- Sắc lệnh số 124/SL, quy định điều kiện cho phép những người muốn mở "hiệu bào chế" thuốc chữa bệnh theo Tây y 10).

Các sắc lệnh trên đồng thời cũng quy định rõ hình phạt áp dụng đối với những người chữa bệnh, bào chế thuốc trị bệnh theo Tây y 11) mà không có đủ các điều kiện đã quy định.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 31

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm, ký bút danh A.G., đăng trên báo Sự thật, số 121.

Từ những kinh nghiệm qua việc Người mua gạo khao quân, bài báo nhấn mạnh: "Sau mỗi một việc cần phải rút kinh nghiệm.

Kinh nghiệm riêng từng cán bộ, từng địa phương. Kinh nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương. Kinh nghiệm thất bại và kinh nghiệm thành công. Rồi tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm ấy cho khắp tất cả cán bộ, tất cả địa phương. Mỗi cán bộ, mỗi địa phương sẽ học những kinh nghiệm hay; tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng những kinh nghiệm cũ vào những công việc mới.

Như vậy khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm, công việc sẽ rất mau tiến bộ".

- Báo Sự thật, số 121, ngày 31-10-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 703-705.

Tháng 11, ngày 4

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 126/SL, quy định tất cả nam công dân Việt Nam từ 18 tuổi đến 45 tuổi đều có nghĩa vụ phải phục vụ trong quân đội một thời hạn là hai năm. Khi có chiến tranh, thời hạn này có thể kéo dài cho đến hết chiến tranh.

Sắc lệnh nêu rõ những trường hợp được hoãn nhập ngũ và quy định các thủ tục gọi tòng quân phục vụ quân đội.

- Sắc lệnh số 127/SL, về việc hợp nhất Liên khu I và Liên khu X thành Liên khu Việt Bắc, và thành lập Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.

- Sắc lệnh số 128/SL, cử các thành viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.

- Sắc lệnh số 129/SL, cử cố vấn Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 130/SL, sáp nhập huyện Thuỷ Nguyên thuộc tỉnh Kiến An, huyện Nam Sách và huyện Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương vào tỉnh Quảng Yên.

- Sắc lệnh số 131/SL, trả lại tỉnh Bắc Ninh (Liên khu I) huyện Gia Lâm (kể cả thị xã) trước đây đã sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên (Liên khu III).

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giáo viên và học viên lớp "Chuẩn bị tổng phản công" của Trường Trung học Lục quân Trần Quốc Tuấn nhân ngày khai giảng.

Người căn dặn các học viên:

"Luyện tập thân thể cho mạnh mẽ,

Nghiên cứu kỹ thuật cho thông thạo.

Trau dồi tinh thần cho vững chắc.

Hun đúc đạo đức của người quân nhân cách mạng cho vững vàng."

Và "phải ra sức thi đua làm cho trọn nhiệm vụ để xứng đáng cái tên lớp vẻ vang của các cháu, để xứng đáng với lòng tin cậy mà Chính phủ và đồng bào đặt nơi các cháu".

- Báo Cứu quốc, số 1392, ngày 9-11-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 707-708.

Tháng 11, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi các nhân viên và cơ quan quân, dân, chính, các đoàn thể nhân dân đã đánh thắng giặc lụt.

Người nêu rõ: Đánh thắng giặc lụt là một thắng lợi bộ phận trong thắng lợi chung của toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, là kết quả của sự hăng hái, cố gắng, đồng tâm và sự phối hợp chặt chẽ giữa hành chính, chuyên môn, bộ đội, đoàn thể và nhân dân.

Người mong mọi người, mọi cơ quan tiếp tục cố gắng thi đua, sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để làm tốt hơn công tác bảo vệ đê điều.

- Báo Cứu quốc, số 1393, ngày 10-11-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 709.

Tháng 11, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh điện cho Đại diện Thông tấn xã Việt Nam ở Băng Cốc khi được báo cáo Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã về đến Thái Lan ngày 10-11. Nội dung bức điện như sau:

"Hồ Chủ tịch gửi lời chúc mừng bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã trở về Tổ quốc".

- Tạp chí An ninh thế giới, ngày 16-12-1999.

Tháng 11, trước ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh điện gửi Nguyên soái Xtalin chúc mừng kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười18.

Bức điện viết:

"Nhân dịp Quốc khánh Liên Xô, thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam, và nhân danh cá nhân tôi, tôi gửi Ngài và Chính phủ và nhân dân Liên Xô lời chúc mừng hạnh phúc và thịnh vượng".

- Báo Cứu quốc, số 1399, ngày 16-11-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 706.

Tháng 11, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 134/SL, cử vào Bộ Tư lệnh quân đội địa phương và dân quân Liên khu Việt Bắc các vị sau đây:

- Thiếu tướng Chu Văn Tấn: Chính trị uỷ viên.

- Đại tá Lê Quảng Ba: Tư lệnh Liên khu.

- Đại tá Thanh Phong: Phó Tư lệnh Liên khu.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 135/SL, bãi bỏ điều 9 của Sắc lệnh số 254/SL ngày 19-11-1948, về thẩm quyền bãi miễn của Hội đồng nhân dân xã và tỉnh, thay bằng điều 9 mới có sửa đổi và bổ sung.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Trung ương mở rộng, thảo luận báo cáo của đồng chí Trường Chinh về tình hình mới và nhiệm vụ mới.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 150.

Tháng 11, trước ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc19, căn dặn các cán bộ làm công tác vận động nông dân phải:

- Tổ chức nông dân thật chặt chẽ.

- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.

- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.

- Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ quốc.

- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 710-711.

Tháng 11, ngày 28

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục dự Hội nghị Trung ương mở rộng, nghe báo cáo của đồng chí Võ Nguyên Giáp về quân sự, đánh giá tình hình chiến sự, định kế hoạch mới trong giai đoạn sắp tới.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 150.

Tháng 11, ngày 29

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 136/SL, xác nhận giá trị pháp lý của những điều khoản trong Sắc lệnh số 77/SL ngày 21-12-1945 và các sắc lệnh và quy lệ tiếp sau đối với Hội đồng nhân dân thị  xã và Hội đồng nhân dân thành phố, trừ những sửa đổi được ghi trong các điều 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 trong bản Sắc lệnh này.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh treo giải thưởng cho đơn vị chiến đấu giỏi của Thủ đô. Phần thưởng là một khẩu súng Thompson của Đoàn đại biểu Nam Bộ tặng Người.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thủ đô Hà Nội, Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội, tháng 5-1985, tr. 17.

Tháng 12, ngày 1

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Giải thưởng cháu Bác Hồ, đăng trên báo Vệ quốc quân, số 57.

Nhân dịp Tết Trung thu, các cháu nhi đồng xã Nam Hồng gửi biếu Người một bộ áo nâu và biếu các chiến sĩ 1.400 đồng để tặng đơn vị nào giết được nhiều giặc Pháp nhất. Người đã quyết định dành cả áo và tiền (Người thêm 600 đồng nữa cho đủ 2.000 đồng) để làm một giải thưởng gọi là "Giải thưởng cháu Bác Hồ" tặng cho bộ đội Vệ quốc quân và dân quân du kích nào đến cuối tháng 12-1949 giết được nhiều giặc, cướp được nhiều súng, lập được nhiều công nhất ở mặt trận Trung du.

- Báo Vệ quốc quân, số 57, ngày 1-12-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 714.

Tháng 12, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể cán bộ,chiến sĩ,dân quân du kích và đồng bào đường số 4.

Người thay mặt Chính phủ, khen ngợi quân và dân địa phương đã đánh thắng hai trận lớn ngày 3-9, ngày 17-9 và căn dặn: Chớ vì thắng mà kiêu ngạo, chủ quan khinh địch; bộ đội phải kính trọng và giúp đỡ dân; dân phải thương yêu và ủng hộ đồng bào; quân và dân phải luôn luôn đoàn kết nhất trí.

- Báo Cứu quốc, số 1411, ngày 2-12-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 715-716.

Tháng 12, ngày 5

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện văn tới Chủ tịch Mao Trạch Đông, mừng Ngày thành lập Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Bức điện viết:

"Tôi rất vui mừng được tin Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thành lập. Thay mặt nhân dân và Chính phủ Việt Nam, tôi kính mừng Ngài, Chính phủ và nhân dân Trung Hoa.

Hai dân tộc Việt - Hoa có mối quan hệ anh em trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây, mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để phát triển tự do và hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ dân chủ thế giới và hoà bình lâu dài".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 717.

Tháng 12, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa Hội nghị Đảng đoàn Chính phủ mở rộng.

Người nói về tình hình thế giới, những chuyển biến lớn có lợi cho cuộc kháng chiến của ta, và sự cần thiết có một cuộc kiểm điểm kỹ lưỡng công việc năm 1949 và định hướng mới cho năm 1950.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 154.

Tháng 12, ngày 12

Buổi chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến huấn thị cho Hội nghị Đảng đoàn, yêu cầu mọi người:

- Làm kế hoạch cho đầy đủ, thiết thực.

- Liên hệ giữa bộ phận với toàn cục.

- Mỗi người đều cố gắng làm nhiệm vụ để thực hiện kế hoạch chung.

- Giữ bí mật.

- Tiến mạnh tới tổng phản công. Quân sự làm trọng tâm.

- Thi đua để thực hiện kế hoạch.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 155.

Tháng 12, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138/SL, cho phép một kiều dân Trung Hoa được nhập quốc tịch Việt Nam.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ để đánh giá tình hình thế giới năm 1949; nghe báo cáo tổng kết của các Bộ; nghe kiểm điểm của Chính phủ về một năm chuẩn bị tổng phản công và ấn định những điểm chính trong chương trình công tác năm 1950 nhằm vào hai trọng tâm: tăng cường lực lượng quân sự và các lực lượng kháng chiến để chuyển mạnh sang tổng phản công; phát triển cơ sở dân chủ nhân dân để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi.

Trong ý kiến phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví tình hình thế giới trong năm 1949 như một ván cờ, trong đó hai phe "trắng" "đỏ" đang giành giật với nhau, thế bên "đỏ" thắng lợi rõ ràng, bên "trắng" càng ngày càng vào nước bí. Về tình hình giữa ta và địch, Người nhận định lực lượng địch còn mạnh nhờ sự viện trợ của Anh và Mỹ, nhưng thế của chúng vẫn yếu. Lực lượng của ta còn kém địch vì ta không có sự giúp đỡ của ai, nhưng thế của ta rất vững. Nếu ta cố gắng thêm nữa, với một sự chuyển biến xảy ra có lợi cho sự kháng chiến, cuộc tổng phản công sẽ chắc chắn thắng lợi. Cuộc cờ thế giới ảnh hưởng rất lớn đến tình hình Việt Nam. Sang năm mới, nhân dân Việt Nam, mọi người, mọi ngành, mọi nơi đều phải ra sức thi đua chuẩn bị đầy đủ, để mau chuyển sang tổng phản công, để chơi cho giặc Pháp một nước pháo trùng, thì giặc Pháp nhất định sẽ hoàn toàn thất bại, kháng chiến nhất định sẽ hoàn toàn thành công.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 156-157.

Tháng 12, ngày 17 và ngày 18

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục điều khiển phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Tổng kết phiên họp, Người chỉ thị:

1- Cần hợp lý hoá việc họp hành.

2- Chính quyền và đoàn thể nhân dân phải liên lạc mật thiết và thiết thực hơn nữa. Làm cho mọi người dân đều hiểu về chính sách của Chính phủ.

3- Hoạt động của các Bộ phải ăn khớp với nhau.

4- Tổ chức thi đua ái quốc giữa các Bộ.

Trong ngày 18, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 138b/SL, về việc thành lập Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Phủ Thủ tướng.

- Sắc lệnh số 138c/SL, cử các vị có tên sau đây vào Ban Thanh tra Chính phủ:

+ Tổng Thanh tra: cụ Hồ Tùng Mậu.

+ Tổng Thanh tra phó: ông Trần Đăng Ninh.

+ Thanh tra: ông Tô Quang Đẩu.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 159.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, trước ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản dự thảo Lời kêu gọi của Quốc hội nhân ngày 19-12. Người góp ý kiến và sửa chữa trực tiếp vào bản thảo, sau đó viết thư gửi ông Chánh văn phòng Chủ tịch Chính phủ Phan Mỹ đề nghị "trình lại cụ Tôn 12) và cụ Trực 13), xem hai cụ có đồng ý không, nếu hai cụ đồng ý thì gửi đi ngay cho kịp thời".

- Bút tích bức thư gửi đồng chí Phan Mỹ. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản thảo Lời kêu gọi của Quốc hội có bút tích sửa chữa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bản chụp lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân dịp ba năm toàn quốc kháng chiến.

Lời kêu gọi có đoạn:

"Bốn phần gian nan cực khổ, ta đã vượt được ba phần. Chỉ còn một phần nữa. Nhưng phần này là phần cuối cùng, nó sẽ gay go hơn.

Với lực lượng đại đoàn kết của toàn dân, với chí khí anh dũng của toàn quân, chúng ta quyết khắc phục phần khó khăn cuối cùng này, cũng như chúng ta đã khắc phục những khó khăn trong ba, bốn năm vừa qua.

Vượt khỏi phần khó khăn này, là ta hoàn toàn thắng lợi".

Một lần nữa, Lời kêu gọi khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta: "Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, cứ đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự".

Cùng ngày, thư của Người Gửi đồng bào Công giáo toàn quốc nhân dịp Lễ Nôen, đăng trên báo Sự thật, số 125.

Người gửi lời chúc phúc tới đồng bào Công giáo, cùng đồng bào kính cẩn cầu nguyện Đức Chúa ban phúc cho đất nước, và quả quyết tuyên bố với đồng bào rằng: "Ta nhất định thắng lợi".

Bức thư có đoạn:

"Chúng ta ăn tết Nôen này trong sự đau thương, vì giặc Pháp đã tiến công Phát Diệm, đã xâm phạm đến đất Thánh ta, và vì đồng bào công giáo Phát Diệm, Bùi Chu và nhiều nơi khác đang đau khổ dưới gót sắt của giặc Pháp dã man.

Vậy trong tết Nôen này, chúng ta phải nhớ đến đồng bào trong những nơi ấy, chúng ta phải đoàn kết hơn nữa, kiên quyết hơn nữa, để giải phóng đất Thánh của chúng ta, và giải phóng tất cả đất nước của chúng ta".

- Báo Sự thật, số 125, ngày 19-12-1949.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 718-720.

Tháng 12, ngày 21

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 140/SL, sửa đổi điều 19 và 20 của Sắc lệnh số 71/SL ngày 22-5-1946 về tổ chức và ấn định quy tắc Quân đội quốc gia Việt Nam.

- Sắc lệnh số 141/SL, bãi bỏ Nha hưu bổng và giao các vấn đề về hưu bổng cho Văn phòng Bộ Tài chính phụ trách.

- Sắc lệnh số 142/SL, xác định tư cách Uỷ viên tư pháp công an cho các Trưởng Liên hạt lâm chính và Trưởng hạt lâm chính.

- Sắc lệnh số 143/SL, đổi tên Nha Thương vụ và Nha Khoáng chất kỹ nghệ trong Sắc lệnh số 220/SL ngày 16-11-1946 thành Nha Thương mại và Nha Kỹ nghệ.

- Sắc lệnh số 144/SL, sửa đổi điều 1 của Sắc lệnh số 69/SL ngày 18-6-1949, cho phép nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho mình trước các toà án (trừ Toà án binh tại mặt trận) nếu được chánh án thừa nhận.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 22

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân giải phóng Việt Nam.

Điểm lại quá trình phát triển của quân đội ta, từ nhóm du kích đầu tiên thành lập đến ngày nay trở thành một quân đội lớn mạnh, Người chỉ rõ:

"Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân, cho nên hy sinh kham khổ.

Quân đội ta luôn luôn giữ gìn và phát triển truyền thống anh dũng của Quân giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng gồm trong mười điều kỷ luật".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 145/SL, thành lập Nha Y tế thôn quê trong Bộ Y tế, có nhiệm vụ thực hiện công tác y tế tại các xã như truyền bá vệ sinh và tân y học, mở các nhà hộ sinh, lập các tủ thuốc và đào tạo cán bộ.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 122-123.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 722-723.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi nhân dân Pháp nhân dịp Lễ Nôen và Năm mới 1950.

Sau khi vạch rõ những nguyên nhân của cuộc chiến, những tội ác ghê tởm của thực dân Pháp đã gây ra ở Việt Nam, những tổn thất về của cải, tính mạng của thanh niên Pháp, Chủ tịch viết: "Chúng tôi biết rằng các bạn không tán thành cuộc chiến tranh phi nghĩa này và các bạn thiết tha mong đợi hoà bình.

Chúng tôi cũng muốn hoà bình.

Vậy chúng ta hãy hợp sức lại.

Các bạn hãy chiến đấu kỳ cho đạt được mục đích mà các bạn đã theo đuổi, đòi phải đình chỉ tức khắc cuộc chiến tranh và phải cho ngay các thanh niên Pháp về nước.

Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ mở cuộc tấn công để quét sạch bọn thực dân xâm lược khỏi đất nước chúng tôi.

Thực dân phản động sẽ bị thất bại.

Lúc đó hai dân tộc chúng ta sẽ có thể bắt tay nhau trong hoà bình và nhất trí".

Trong ngày, Người ký Sắc lệnh số 146/SL, quy định thuế điền thổ năm 1950 thu bằng thóc, và ấn định thuế xuất cho các loại ruộng đất.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 724-725.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho người cháu là Hồ Quang Chính bức thư dưới đây:

"Gởi Hồ Quang Chính

Phòng mật mã, bộ Tổng Tư lệnh.

Thơ tiếng ta của cháu, còn phải tập làm nhiều nữa, mới khá.

Thơ chữ Tàu của cháu, giống "văn chương thầy cúng".

Khuyên cháu thi đua học tập và làm việc.

Thân ái"

- Bản chụp bút tích bức thư, in trên báo Giáo dục và Thời đại, số 21, ngày 23-5-1994.

Tháng 12, ngày 26

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 147/SL, quy định cụ thể tại những nơi có tác chiến, cấp chỉ huy quân sự nào thì có quyền ra chỉ thị về phương diện quân sự cho các cấp kháng chiến hành chính và các cấp phụ trách cơ quan chuyên môn nào.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 30

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 148/SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 135/SL ngày 24-7-1946 và ấn định cụ thể mức chi phí tiếp tân cho các cấp chính quyền nhân dân, từ Ban Thường trực Quốc hội đến Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện và thị xã.

- Sắc lệnh số 149/SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, hạng Nhì, hạng BaHuân chương Kháng chiến hạng Nhất cho một số tỉnh, đơn vị và cá nhân nhân dịp kỷ niệm ba năm toàn quốc kháng chiến 14).

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 31

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 150/SL, bổ sung những quyền hạn và nhiệm vụ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ đối với Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Cuối tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với các ông Hoàng Quốc Việt, Trần Danh Tuyên để nghe trình bày và trao đổi về kế hoạch tiến hành Đại hội lần thứ nhất Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Người căn dặn: "Cần tổ chức cho đoàn viên học tập nắm chắc nội dung thi đua trong tình hình mới, tất cả chuẩn bị cho tổng phản công. Đại hội phải hết sức tiết kiệm, tránh phô trương hình thức và phải thật sự dân chủ, bình đẳng. Chú ý có nữ đại biểu công nhân".

Người tỏ ý tiếc không đến dự Đại hội được vì sắp phải đi công tác xa, nhưng hứa sẽ có thư gửi Đại hội.

- Hoàng Quốc Việt: Con đường theo Bác, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1990, tr. 262.

Tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn anh chị em thương binh đã gửi áo biếu Người và khen ngợi tinh thần cố gắng của anh chị em thương binh trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Về món quà tặng của anh em, thư Người viết:

"Còn bộ áo anh em gửi biếu, không nhận chúng thì anh em tủi. Nhận chúng thì tôi không yên lòng.

Tôi định giải quyết thế này: nhờ các đoàn thể bán đấu giá bộ áo ấy, được bao nhiêu tiền thì đưa dùng vào việc nghĩa".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho toàn thể Vệ quốc quân và dân quân du kích báo tin: Trong phiên họp cuối năm, khi kiểm điểm công tác chuẩn bị cho tổng phản công, Hội đồng Chính phủ nhận thấy Vệ quốc quân và dân quân du kích đã lập được nhiều chiến công, nên Chính phủ đã quyết định khen ngợi toàn thể Quân đội quốc gia và Dân quân du kích. Người rất vui lòng được thay mặt Chính phủ chuyển lời khen ngợi đó.

Bức thư viết tiếp:

"Năm mới là năm chuyển mạnh sang tổng phản công, tôi chắc rằng toàn thể quân đội ta, với sự ủng hộ mạnh mẽ của toàn dân sẽ ra sức thi đua lập những chiến công quyết định để mau đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn đặng đáp lại lòng tin cậy của đồng bào và Chính phủ".

- Báo Vệ quốc quân, số Xuân Canh Dần, 1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 729.

Tháng 12

Nhân dịp có đoàn đại biểu đi công tác vùng Công giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào Công giáo.

Người nêu rõ: "Nhờ sức đại đoàn kết của toàn dân, và sự hăng hái tham gia kháng chiến của mọi người, giáo cũng như lương" mà kháng chiến ngày càng thắng lợi. Vì vậy, "đồng bào lương cũng như giáo, đã đoàn kết phải đoàn kết khăng khít hơn nữa, đã tham gia kháng chiến phải thi đua tham gia mạnh hơn nữa", để đến ngày Tổ quốc thống nhất và độc lập thực sự, ai cũng có thể tự hào rằng mình đã góp một phần vào thắng lợi chung.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 726-727.

Tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ, tỏ ý lo lắng cho sự an toàn của Giám mục từ khi Pháp nhảy dù xuống Bùi Chu - Phát Diệm. Người đề nghị: "Nếu cụ vui lòng ra vùng tự do để cùng toàn dân kháng chiến chống Pháp thì tôi sẽ ra lệnh cho địa phương rước cụ đi", và khẳng định: "Còn Chính phủ thì quyết dùng lực lượng để giải phóng đất Thánh, cũng như để giải phóng toàn bộ đất nước ta".

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Hội nghị công giáo, cho biết Người rất muốn đến tham dự, "nhưng tiếc vì bận việc quá không đến được. Vậy tôi có nhờ ông Bộ trưởng Hoàng Minh Giám tới thay mặt tôi chúc phúc các vị và nhờ các vị chuyển lời chúc phúc của tôi cho đồng bào công giáo".

Người mong "các vị sẽ nỗ lực kêu gọi đồng bào lương giáo đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, thi đua tham gia kháng chiến mạnh hơn nữa để mau đi đến thắng lợi hoàn toàn, để thực hiện khẩu hiệu:

Phụng sự Đức Chúa

Phụng sự Tổ quốc".

- Báo Nhân dân, ngày 29-12-1996.

Tháng 12

Được tin Luật sư Phan Anh có thêm cậu con trai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư mừng:

"Chú thím thêm một con

Các cháu thêm một em

Bác Hồ thêm một cháu

Nước nhà thêm một công dân

Tương lai thêm một chiến sĩ".

- Thơ ca chiến khu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr. 362.

Tháng 12

Nghe tin bác sĩ Trần Hữu Tước ốm, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư hỏi thăm:

"Gửi bác sĩ Trần Hữu Tước,

Gửi lời thăm chú. Nghe nói chú ốm, vậy chú phải nghỉ một tháng để dưỡng bệnh. Chú Trần sẽ thu xếp giúp chú.

Đây là mệnh lệnh!

Chào thân ái và quyết thắng

Tháng 12 năm 1949

HỒ CHÍ MINH"

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại gia đình bác sĩ Trần Hữu Tước.

Khoảng cuối năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chia buồn với gia đình ông Phan Kế Toại khi được tin mẹ vợ ông từ trần.

- Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tháng 8-1990.

Khoảng cuối năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thư từ, công văn do Triệu Hồng Thắng 15) mang tới. Khi Triệu Hồng Thắng đi xuống nhà, Người nghe có tiếng ho, bèn gọi lại:

- Chú Thắng, vào đây Bác hỏi. Chú không có áo ấm à?

Triệu Hồng Thắng lúng túng chưa kịp trả lời, Người đặt bút xuống bàn, đứng lên, đến bên giường lấy một cái áo trấn thủ đem lại.

- Chú mặc cái áo này cho đỡ lạnh.

Triệu Hồng Thắng lắc đầu:

- Không, thưa Bác, cháu đang sức thanh niên, lại ở miền núi quen chịu rét rồi. Bác có tuổi, cần mặc ấm...

Người chỉ vào chiếc áo đang mặc:

- Bác có cái áo này đủ rồi. Chú phải mặc áo này kẻo sinh bệnh...

Triệu Hồng Thắng cầm chiếc áo, ứa nước mắt.

- Lời kể của Triệu Hồng Thắng, in trong sách Nhớ công ơn Bác, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 92.

Khoảng cuối năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thiếp thư cho Ban Xung phong Lào Bắc 16).

Thiếp thư có đoạn:

"... Kiến lập căn cứ địa Lào độc lập là nhiệm vụ cần  kíp. Ban Xung phong Lào Bắc phải ra sức gây cơ sở quần chúng trong vùng địch kiểm soát.

Tôi chúc Ban Xung phong Lào Bắc chóng thành công, khu giải phóng Lào độc lập chóng thành lập".

- Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 14.

- Tư liệu lưu trữ của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng.

Trong năm

Với bút danh Trần Lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn Giấc ngủ mười năm, một truyện ngắn mang tính chất viễn tưởng.

Truyện kể về cuộc đời của một nông dân miền núi tên là Nông Văn Minh, trước cách mạng phải đi ở, sau tham gia Vệ quốc quân, chiến đấu dũng cảm và bị thương trong trận đèo Bông Lau cuối năm 1947, được đưa về Viện quân y điều trị. Do vết thương quá nặng, anh bị hôn mê, sau mười năm mới tỉnh. Con gái anh bây giờ đã là sinh viên y khoa, được đưa vào Viện quân y chăm sóc anh.

Khi tỉnh dậy, anh được con gái kể lại cho nghe những gì đã xảy ra trong mười năm qua: cuộc kháng chiến của quân dân ta đã kết thúc thắng lợi, Pháp phải công nhận Việt Nam, ký hoà ước với Chính phủ ta, nhân dân đang nô nức thi đua xây dựng lại đất nước. Người vợ nghèo khổ của anh nay đã là chủ tịch xã. Gia đình, quê hương, đất nước đều đã đổi thay.

Anh chiến sĩ đèo Bông Lau năm xưa, nghe con gái kể chuyện, nhìn thấy những thay đổi xung quanh..., trong lòng vô cùng phấn khởi và cảm động.

- Trần Lực: Giấc ngủ mười năm, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Việt Bắc, 1949. Bản lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 603-623.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi anh chị em công nhân Công đoàn vận tải sông Lô (Tuyên Quang), hoan nghênh đề nghị của các chị em mong được đóng đảm phụ tham gia kháng chiến như nam giới. "Việc đó càng tỏ rõ lòng nồng nàn yêu nước của chị em", Người mong "chị em xung phong thi đua ái quốc, thân ái đoàn kết, tổ chức công việc cho nhanh, cho khéo. Mọi người đều học cho biết đọc, biết viết, làm tính, giữ bí mật và giúp đỡ bộ đội".

- Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ Hà Tuyên: Bác Hồ với Hà Tuyên, 1986, tr. 25.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng ông Văn Trang 17), cán bộ làm công tác vận động Hoa kiều, một mảnh lụa Nam Định của đồng bào dưới xuôi gửi biếu Người để ông may áo cho đứa con nhỏ mới hơn một tuổi.

- Văn Trang: Ở bên Hồ Chí Minh, Tạp chí Những vấn đề quốc tế (Trung Quốc), số 1-1991.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chia buồn khi được tin ông Hoàng Minh Châu, uỷ viên trong Ban Thường trực Quốc hội tạ thế. "Tôi thay mặt Chính phủ kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn ông Hoàng và gửi lời thân ái chia buồn với gia đình ông Hoàng cùng đồng bào tỉnh Biên Hoà".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 728.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời bốn câu hỏi phỏng vấn của một nhà báo Mỹ:

1. Hỏi: Xin hỏi Chủ tịch có chắc sẽ đánh thắng thực dân Pháp không?

Đáp: Chắc thắng.

2. Hỏi: Chủ tịch đối với ông Bảo Đại thế nào?

Đáp: Về phương diện tư nhân, tôi với ông Vĩnh Thuỵ không có thù hiềm gì hết. Nhưng về phương diện dân tộc, Vĩnh Thuỵ là một người có tội phản quốc.

3. Hỏi: Chủ tịch thân Mỹ hay chống Mỹ?

Đáp: Tôi chỉ thân Việt.

Nhưng sau đây là ý riêng của chúng tôi: Trước kia chúng tôi rất mến người Mỹ. Một là vì chúng tôi mến lời Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Hai là vì chính sách sáng suốt của Tổng thống Rudơven (Roosevelt) đối với các dân tộc nhỏ yếu. Ba là vì thái độ thành thực của những người Mỹ đã cộng tác với chúng tôi trong thời kỳ chống Nhật.

Nhưng nay tâm lý ấy hơi khác. Một là vì thái độ của những người Mỹ quan trọng, như ông Bulit đã bày tỏ trong báo Life. Hai là vì phần nhiều khí giới và lương thực quân đội Việt Nam lấy được từ quân đội Pháp đều là do Mỹ tiếp tế. Ba là vì nhiều người Mỹ hay tin những lời tuyên truyền giả dối của Pháp, như nói Việt Nam theo mệnh lệnh Kremlin và Kominform 18).

Phải chăng, lúc tướng Washington và người Mỹ đánh Anh để tranh độc lập cũng vì mệnh lệnh của Kremlin và Kominform.

4. Hỏi: Khi đã độc lập, Việt Nam sẽ hoan nghênh tư bản ngoại quốc không?

Đáp: Sau 80 năm bị thực dân Pháp vơ vét, bóc lột và mấy năm bị thực dân Pháp tàn phá, cướp bóc, nước Việt Nam độc lập cần phải ra sức kiến thiết.

Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) thật thà muốn đưa tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên, thì Việt Nam sẽ rất hoan nghênh.

Bất kỳ nước nào (gồm cả nước Pháp) mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt.

- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 1-1991.

--------------

Chú thích

1) Xiêm: Thái Lan (B.T).

2) Có 30 cán bộ bình dân học vụ tổ chức thành một phái đoàn xung phong đến tỉnh Bắc Giang với mục đích giúp Bắc Giang thanh toán nạn mù chữ trong năm 1949. Biết tin này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đoàn.

3) Tờ báo của dân quân, du kích ra hằng tuần, do Cục Dân quân thuộc Bộ Quốc phòng phát hành (B.T).

4) Ngày 9-8 địch rút khỏi Bắc Cạn. Bắc Cạn là thị xã đầu tiên được giải phóng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

5)  Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo lúc đó ở Tuyên Quang (B.T).

6) Hội nghị trung du họp từ ngày 19 đến ngày 21-9-1949 (B.T).

7) Nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (B.T).

8) Gồm một số binh sĩ người Bắc Phi trong quân đội viễn chinh Pháp phản chiến chạy sang phía Việt Nam. Họ được tổ chức lại để làm công tác tuyên truyền, kêu gọi binh lính địch phản chiến.

9), 10), 11) Nguyên văn sắc lệnh: "chữa bệnh theo lối Âu - Mỹ" (B.T).

12) Cụ Tôn: Tôn Đức Thắng (B.T).

13) Cụ Trực: Phạm Bá Trực (B.T).

14)  - Thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho tỉnh Thái Bình.

  - Thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Phúc Yên.

- Thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba (truy tặng) cho ông Vũ Dương Thành (Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Phú Thọ).

- Thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho các đơn vị: Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam, Công an tỉnh Thừa Thiên, Công đoàn hoả xa Nam Trung Bộ, Công đoàn Vạn Thắng (Thừa Thiên), Ngành Giao thông liên lạc Nam Bộ; và các ông bà Nguyễn Văn Hồng (Hải Dương), Nguyễn Văn Tiết (Thủ Dầu Một), Nguyễn Văn Lương (Gia Định), Nguyễn Thị Hoa tức Hồ Thị Bi (Gia Định), bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng (Nam Bộ).

15) Chiến sĩ cảnh vệ Văn phòng Chủ tịch phủ (B.T).

16) Ban Xung phong Lào Bắc, tên một tổ chức phối hợp giữa Liên khu X (Việt Nam) và Mặt trận Lào yêu nước.

Tờ thiếp thư không đề ngày tháng, nhưng theo Công văn số 3501/VP của Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam và Công văn số 59/BCS, chúng tôi cho rằng tờ thiếp thư được viết vào cuối năm 1949.

17) Văn Trang, cán bộ người Trung Quốc, được cử sang Việt Nam công tác từ năm 1948 đến năm 1967 mới về nước. Suốt 19 năm công tác tại Việt Nam, ông may mắn có rất nhiều dịp sống gần Chủ tịch Hồ Chí Minh.

18) Tên gọi tắt của Cục Thông tin Quốc tế Cộng sản, một tổ chức quốc tế do các Đảng Cộng sản thoả thuận thành lập sau khi Quốc tế Cộng sản giải tán, làm nhiệm vụ giữ mối liên hệ giữa các đảng. Trụ sở đặt tại Praha (Tiệp Khắc).

* Năm 1950 - Từ tháng 7 đến tháng 12

Tháng 7, từ ngày 8 đến ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Chính phủ để xem xét tình hình thế giới, kiểm điểm công tác Chính phủ sáu tháng đầu năm, thông qua những công tác chính trong sáu tháng cuối năm và giải quyết một số vấn đề quan trọng khác.

Kết thúc phiên họp, Người nhắc lại các Bộ phải hết sức chú ý vấn đề giữ bí mật Nhà nước, triệt để quân sự hoá, đề phòng địch có thể mở cuộc tấn công quy mô lớn lên Việt Bắc, vấn đề đoàn kết nội bộ và kỷ luật chính quyền.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 253.

Tháng 7, khoảng đầu tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi đồng bào Liên khu IV, nhờ Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu chuyển 1).

Thư cho biết: Người rất đau lòng khi được biết ở một vài nơi, cán bộ đã làm sai chỉ thị của Chính phủ và đường lối của Đoàn thể, xa rời nhân dân, quen thói mệnh lệnh, thậm chí ép uổng, cưỡng bức, bắt bớ dân. Người thành thật xin lỗi những đồng bào bị oan ức và tự phê bình là đã giáo dục và lựa chọn cán bộ chưa được chu đáo.

Người khẳng định với đồng bào: "Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm...

Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy".

- Bác Hồ với Bình Trị Thiên, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng và Ty Văn hoá Bình Trị Thiên xuất bản, 1977, tr. 16-18.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 65-66.

Tháng 7, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 112/SL, hợp nhất Nha Thuế trực thu, Nha Trước bạ công sản điền thổ và Nha Địa chính thành một cơ quan lấy tên là Nha Công sản - trực thu - địa chính.

- Sắc lệnh số 113/SL, bổ nhiệm Giám đốc và hai Phó Giám đốc Nha Công sản - trực thu - địa chính.

- Sắc lệnh số 114/SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Trung học vụ và Phó Giám đốc Tiểu học vụ.

- Sắc lệnh số 115/SL, đổi tên Viện Kháng nhiễm thú ngư trực thuộc Nha Chăn nuôi thành Viện Thú y trực thuộc Bộ Canh nông trung ương và bổ nhiệm Giám đốc của Viện.

- Sắc lệnh số 116/SL, chấp nhận đơn xin từ chức của Tổng Giám đốc Nha Chăn nuôi - bác sĩ Phạm Văn Huyến; bổ nhiệm Tổng Giám đốc và Phó Giám đốc Nha Chăn nuôi.

- Sắc lệnh số 117/SL, bổ nhiệm hai Phó Giám đốc Nha Nông chính.

- Sắc lệnh số 118/SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Nha Thuỷ lâm.

- Sắc lệnh số 119/SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ Lao động.

- Sắc lệnh số 120/SL, đổi tên Hội đồng tạm cấp ruộng đất tỉnh và Ban tạm cấp ruộng đất ở đồn điền của thực dân Pháp và của những người bị kết án về các tội có phương hại đến nền độc lập của quốc gia, thành Hội đồng tạm cấp ruộng đất tỉnh và Ban tạm cấp ruộng đất xã hay đồn điền.

- Sắc lệnh số 121/SL, ấn định các cơ quan chức năng của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; tổ chức và nhiệm vụ của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp.

- Sắc lệnh số 122/SL, bổ nhiệm các ông:

Nguyễn Chí Thanh, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ Tổng tư lệnh.

Trần Đăng Ninh, Phó Tổng thanh tra Chính phủ, kiêm chức Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Bộ Tổng tư lệnh.

Lê Liêm, giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Bộ Tổng tư lệnh.

- Sắc lệnh số 123/SL, bổ nhiệm các Cục trưởng, Phó Cục trưởng, Chánh - Phó Văn phòng của Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp, các binh chủng và Văn phòng Bộ Tổng tư lệnh 2).

- Sắc lệnh số 124/SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 33/SL ngày 25-4-1949 và Sắc lệnh số 34 ngày 25-4-1949. Thủ tướng Chính phủ sẽ ra một nghị định ấn định một tổ chức tạm thời để theo dõi công việc thống kê.

- Sắc lệnh số 125/SL, quy định trách nhiệm của các cấp Uỷ ban kháng chiến hành chính và chuyên môn, các đơn vị bộ đội và nhân dân ở địa phương khi có bệnh truyền nhiễm gia súc phát sinh.

- Sắc lệnh số 126/SL, sửa đổi điều 3 của Sắc lệnh số 82/SL ngày 22-5-1950 về phụ cấp gia đình các vị trong Chính phủ.

- Sắc lệnh số 127/SL, sửa đổi điều 3 của Sắc lệnh số 83/SL ngày 22-5-1950 về phụ cấp gia đình các vị trong Ban Thường trực Quốc hội.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp Hội đồng Quốc phòng tối cao để kiểm điểm tình hình công tác sáu tháng đầu năm và định chương trình công tác sáu tháng cuối năm.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 128/SL, quy định các hình phạt đối với người phạm tội bóc trộm, ăn cắp, thủ tiêu công văn của Chính phủ và thư từ của tư nhân.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Quốc phòng tối cao họp ngày 14-7-1950, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 15

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Phải chữa cái bệnh cấp bậc, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 136.

Người phân tích các biểu hiện, nguyên nhân, tác hại của bệnh cấp bậc và nhấn mạnh: "Trong công việc cách mạng, công việc kháng chiến kiến quốc, không có việc sang, việc hèn, mọi việc đều quan trọng. Mọi người phải làm tròn nhiệm vụ của mình". Người còn giúp một "thang thuốc hay nhất" để trị căn bệnh đó, ấy là:

"1. Dùng cách phê bình và tự phê bình để rửa sạch đầu óc ngôi thứ, địa vị và chủ nghĩa cá nhân.

2. Đặt công việc chung, lợi ích chung lên trên hết, trước hết".

- Báo Sự thật, số 136, ngày 15-7-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 67-69.

Tháng 7, trước ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của báo Cứu quốc về những kết quả thu được trong cuộc tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực sáu tháng đầu năm 1950, về những nhiệm vụ chính của nhân dân nói chung và của mỗi giới nói riêng trong cuộc tổng động viên sáu tháng cuối năm.

- Báo Cứu quốc, số 1604, ngày 20-7-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 70-72.

Tháng 7, trước ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo về vấn đề đế quốc Mỹ can thiệp vào Đông Dương.

Người nêu rõ: "Lâu nay đế quốc Mỹ đã công khai can thiệp vào Đông Dương. Lâu nay thực dân Pháp làm chiến tranh ở Việt Nam, Miên 3) và Ai Lao 4) là nhờ tiền bạc, súng đạn Mỹ, và theo chỉ thị của Mỹ. Nhưng đế quốc Mỹ càng ngày càng mưu gạt thực dân Pháp để độc chiếm lấy Đông Dương. Vì lẽ đó mà Mỹ càng ngày càng trực tiếp và tích cực can thiệp về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế.

Và cũng vì lẽ đó mà mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ với thực dân Pháp ngày càng nhiều".

Sau khi phân tích ảnh hưởng chính sách can thiệp của Mỹ đối với nhân dân Đông Dương, Người chỉ rõ: các dân tộc Đông Dương muốn độc lập thì phải đánh tan thực dân Pháp là kẻ thù số một. Đồng thời phải chống bọn can thiệp Mỹ, phải vạch rõ âm mưu của chúng, phải lột mặt nạ bọn tay sai, phải đoàn kết chặt chẽ với nhau. "Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với dân tộc anh em Miên, Lào thì sức mạnh đó đủ đánh tan thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.

Đế quốc Mỹ đã thất bại ở Trung Quốc. Đế quốc Mỹ sẽ thất bại ở Đông Dương".

- Báo Cứu quốc, số 1608, ngày 25-7-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 73-74.

Tháng 7, trước ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Ban Tổ chức Trung ương nhân ngày thương binh tử sĩ, nhắc nhở ý nghĩa ngày kỷ niệm này và mong các đoàn thể, các giới đồng bào có nhiều hình thức để tỏ lòng thương mến thương binh và gia đình các tử sĩ.

Nhân dịp này, Người gửi biếu một tháng lương để góp vào quỹ tổ chức.

- Báo Cứu quốc, số 1610, ngày 27-7-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 75.

Tháng 7, ngày 27

Tại căn cứ địa Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Tướng Trần Canh, Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, trước khi Đoàn cùng với Bộ chỉ huy chiến dịch lên biên giới chuẩn bị phương án tác chiến.

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 152.

- Ảnh tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 7, ngày 30

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhan đề Xin chỉ thị, gửi báo cáo, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 137.

Người chỉ rõ: trước khi làm không xin chỉ thị, khi làm rồi không gửi báo cáo, như thế là vô kỷ luật, vô chính phủ, địa phương chủ nghĩa, trái nguyên tắc "tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí".

Sau khi phân tích Vì sao phải xin chỉ thị Trung ương Vì sao phải báo cáo lên Trung ương, Người nhấn mạnh: "Xin chỉ thị trước khi làm, gửi báo cáo khi làm xong - là một điều rất cần thiết, để làm cho chính sách của Chính phủ và Đoàn thể thấu suốt từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, để tránh bệnh "bán thân bất toại" 5) trong công việc, để tránh thất bại và để lượm được nhiều thành công". Vì vậy các cấp phải coi việc đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình.

Người còn hướng dẫn tỉ mỉ công việc nào thì xin chỉ thị ở cấp nào, cách làm báo cáo thường, báo cáo định kỳ, báo cáo phải đạt những yêu cầu gì, do ai viết, v.v..

- Báo Sự thật, số 137, ngày 30-7-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 76-78.

Tháng 8, ngày 2

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến địa điểm họp Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ bảy 6).

Tối, Người chủ toạ phiên họp toàn thể tại hội trường. Người lần lượt trả lời thắc mắc của mọi người và cuối cùng tuyên bố hội nghị có nhiệm vụ nghiên cứu phương pháp thi hành cho được việc Đảng ra công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 130/SL, quy định lại những trường hợp Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh được phép bắt giữ can phạm chính trị; trình tự và thời hạn điều tra sự vụ của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh và liên khu.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 270.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh lệnh cho Liên khu uỷ Việt Bắc và các tỉnh trong Liên khu "phải chỉnh đốn, phát triển và củng cố du kích các xã một cách thiết thực để:

- Ở vùng tự do thì chuẩn bị đánh địch trong Thu - Đông này.

- Ở vùng tạm chiếm thì tích cực khuấy rối và đánh trả, làm cho địch tiêu hao".

- Bác Hồ với Bắc Thái, Ty Văn hoá - Thông tin  Bắc Thái xuất bản, 1979, tr. 11.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 79.

Tháng 8, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 131/SL, chuyển trả huyện Mai Đà hiện thuộc Liên khu Việt Bắc cho tỉnh Hoà Bình thuộc Liên khu III.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân kỷ niệm lần thứ năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.

Lời kêu gọi điểm lại những nét lớn tình hình trong nước và thế giới 5 năm qua, nêu bật ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám và cuộc trường kỳ kháng chiến, đồng thời đề ra những nhiệm vụ cần kíp cho toàn dân thực hiện để đi tới thắng lợi hoàn toàn.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 132/SL, chỉ định ông Ngô Duy Cảo làm Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 80-84.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 133/SL, bãi bỏ Nha Hoa kiều vụ được thành lập trước đây theo Sắc lệnh số 137/SL ngày 15-2-1948 và giao cho Bộ Nội vụ, Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu và tỉnh phụ trách công việc hành chính của ngành Hoa kiều vụ.

- Sắc lệnh số 134/SL, cử Thiếu tướng Trần Tử Bình, nguyên Phó Tổng Thanh tra Quân đội quốc gia Việt Nam, làm Chính ủy Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 8, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị các cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc.

Người căn dặn: Giáo dục nhi đồng là một khoa học. Cần dạy cho các cháu biết "Yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hoá", đồng thời "phải giữ toàn vẹn tính vui vẻ hoạt bát, tự nhiên, tự động trẻ trung của chúng".

Để làm được việc đó, Người yêu cầu các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc với cha mẹ, và thầy giáo của các em. Chính phủ, các đoàn thể và tất cả đồng bào đều có trách nhiệm giúp vào việc giáo dục nhi đồng. Phụ nữ, thanh niên phải là người phụ trách chính, nhất là thanh niên. Cán bộ phụ trách phải cố gắng học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, nhất là phải làm kiểu mẫu trong mọi việc cho các em noi theo.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết bức thư (bằng tiếng Pháp) dưới đây cho Đại tá Nguyễn Dân 7):

"Đồng chí Nguyễn Dân thân mến,

Rất tiếc là không thể đến xiết chặt tay đồng chí trước khi đồng chí lên đường. Hẳn là đồng chí biết rằng dù ở đây hay nơi nào khác, tôi chắc rằng đồng chí sẽ đem hết khả năng có thể của mình để phục vụ cho sự nghiệp của chúng ta.

Chúc đồng chí lên đường mạnh khoẻ bình an.

Ngày 25 tháng 8 năm 1950

HỒ CHÍ MINH".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 85.

- Pierre Sergent: Un etrange monsieur Frey (Một ông Phrây lạ kỳ), Fayard, 1982, tr. 108.

- Nội san Bảo tàng Hồ Chí Minh, số tháng 3-2004.

Tháng 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng chuẩn y phương án tác chiến của Chiến dịch Biên giới20.

Phân tích chủ trương đánh Đông Khê, Người chỉ rõ: "Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội thuận lợi tiêu diệt chúng trong vận động".

- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1977, tr. 400.

- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 326.

Tháng 9, ngày 2

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp của Hội đồng Chính phủ để nhận định về tình hình thế giới và trong nước trong thời gian qua, về tình hình và âm mưu của địch, bàn kế hoạch đối phó của ta trong thu đông này, kế hoạch di chuyển cơ quan, vấn đề tiếp tế lương thực.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, bộ đội địa phương và dân quân du kích, nêu rõ ý nghĩa quan trọng của Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng và hô hào chiến sĩ ở mặt trận Cao - Bắc - Lạng cũng như ở các mặt trận khác hãy ra sức thi đua giết giặc lập công, quyết tâm thắng trận này.

Trong ngày, bài viết của Người nhan đề Phải tẩy sạch bệnh quan liêu, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 140.

Tác giả phân tích nguyên nhân, biểu hiện, tác hại của căn bệnh này và chỉ ra thang thuốc chữa bệnh quan liêu là:

"Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.

- Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.

- Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.

- Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư".

Nhân ngày Độc lập (2-9) Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 134b/SL, tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba cho Liên hiệp công đoàn thành Chợ Lớn, Liên đoàn cao su Nam Bộ và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho Công đoàn Đà Nẵng.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 291.

- Báo Sự thật, số 140, ngày 2-9-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 86-90.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ và nhân dân Việt Nam, gửi điện tới Păngđi 8) Nêru - Thủ tướng Ấn Độ, thăm hỏi nhân dân thành phố Asam vừa bị tai nạn động đất 9).

- Báo Cứu quốc, số 1646, ngày 15-9-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 91.

Tháng 9, trước ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời những câu hỏi của nhà báo Pháp Lêô Phighe liên quan đến chính sách đối ngoại của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Người bày tỏ sự vui mừng, phấn khởi trước việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ mới công nhận Việt Nam, khẳng định mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương được dựa trên nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn và tôn trọng độc lập quốc gia của nhau.

Với nước Pháp, Người nêu rõ, chỉ cần quân đội Pháp rút hết về nước là hoà bình sẽ được lập lại và hai nước Việt - Pháp sẽ hợp tác trên lập trường anh em và bình đẳng.

Về việc đế quốc Mỹ công nhiên can thiệp vào nội tình Việt Nam, theo Người, "việc can thiệp đó có tính chất xâm lược, phản dân chủ và không Mỹ chút nào. Nhất định đế quốc Mỹ sẽ thất bại như ở Trung Hoa trước đây".

Người mong nhân dân các nước Bắc Phi và Đông Phi sẽ đoàn kết lại để ngăn cản không cho thực dân Pháp đẩy thanh niên nước họ vào cuộc chiến tranh "bẩn thỉu" ở Đông Dương hay bất cứ một cuộc chiến tranh phi nghĩa nào; và hoan nghênh phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam đang lan rộng ở bên Pháp. "Nhân dân Pháp đấu tranh chống cuộc chiến tranh ở Việt Nam cũng là đấu tranh cho hoà bình thế giới và độc lập của nước Pháp".

- Báo Cứu quốc, số 1641, ngày 8-9-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 92-93.

Tháng 9, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Cao -Bắc - Lạng.

Người thay mặt Chính phủ và quân đội trân trọng cảm tạ đồng bào ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn đã cố gắng rất nhiều trong việc chuẩn bị cho chiến dịch, như góp quân lương, sửa đường sá, vận tải, chuyên chở, giúp đỡ bộ đội, v.v., và kêu gọi: "Toàn thể đồng bào ba tỉnh, các uỷ ban kháng chiến và hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to".

- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bắc Thái: Bác Hồ với Bắc Thái, Ty Văn hoá - Thông tin Bắc Thái, 1978, tr. 21.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 94.

Cuối tháng 8, đầu tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi Chiến dịch Biên giới (Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng).

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 152.

Tháng 9, trước ngày 10

Trên đường đi chiến dịch, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thanh niên bốn câu thơ:

Không có việc gì khó,

Chỉ sợ lòng không bền,

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên.

- Thơ Bác Hồ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 120.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 95.

Tháng 9, ngày 10

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Sở Chỉ huy chiến dịch đặt ở làng Tả Phầy Tử thuộc huyện Quảng Yên, phía bắc thị xã Cao Bằng. Tại đây, Người đã phê chuẩn quyết tâm của Bộ Chỉ huy chiến dịch gồm bốn bước: đánh Đông Khê; đánh quân tiếp viện của địch lên Đông Khê; đánh Thất Khê, đánh Cao Bằng.

Cùng ngày, bài viết của Người nhan đề Chỉnh đốn Đoàn thể và chính quyền, ký bút danh X.Y.Z., đăng trên báo Sự thật, số 141.

Bài báo có đoạn:

"Người ta mỗi ngày ai cũng rửa mặt, vài hôm phải tắm giặt để giữ cho thân thể sạch sẽ, mạnh khoẻ.

Người cách mạng cũng thế, trước hết là cán bộ chính quyền và Đoàn thể cách mạng, mỗi người cũng phải rửa các mặt tinh thần, tư tưởng của mình, để tẩy sạch những chứng bệnh, những khuyết điểm.

Chính quyền và Đoàn thể cũng cần thường thường rửa các bộ máy của mình, để tẩy trừ những phần tử bất chính, đầu cơ, và chỉnh đốn lại cách làm việc cho gọn gàng, mau chóng".

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 152.

- Báo Sự thật, số 141, ngày 10-9-1950.

Tháng 9, ngày 11

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị cán bộ
chỉ huy cấp trung đoàn và đại đoàn do Đảng uỷ Bộ Chỉ huy chiến dịch triệu tập để nghe phổ biến kế hoạch chiến dịch.

Người chỉ thị: "Chưa đánh thắng thì chưa được coi là đã chuẩn bị xong. Quân sự thì phải chuẩn bị mãi. Thắng xong chiến dịch này cũng mới chỉ là chuẩn bị xong một đợt; toàn thắng mới là chuẩn bị xong... Trong quân sự phải kiên quyết và bạo dạn. Bạo dạn, dũng cảm không phải là liều. Liều là dại. Dũng cảm là khôn. Kiên quyết và bạo dạn không phải là một người mà phải toàn bộ tất cả mọi người. Muốn toàn bộ kiên quyết và bạo dạn thì phải có kỷ luật... Kỷ luật là động lực giữ sức mạnh của bộ đội".

- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 153.

- Theo Bác đi chiến dịch, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1980, tr. 246-249.

Tháng 9, ngày 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt trận Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở màn chiến dịch.

Người chỉ thị cho bộ đội: "Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu".

- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1977, tr. 404.

Tháng 9, ngày 15

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 135/SL, chỉ định người vào Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV.

- Sắc lệnh số 136/SL, chỉ định ông Hoàng Anh, nguyên Uỷ viên, làm Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, trước ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Trung đoàn 296 (Đoàn Sông Lô). Trung đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, Chính uỷ Trần Độ cùng toàn thể cán bộ chiến sĩ Trung đoàn đã được Người giao nhiệm vụ "phải đánh thắng trận mở màn của Chiến dịch Biên giới".

- Báo Cựu chiến binh thủ đô, số 44, tháng 5-1997.

 Tháng 9, trước ngày 16

Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập đồng chí Hoàng Cầm - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 130, tiểu đoàn chủ công đánh chiếm Phủ Thiên (khu hành chính của huyện lỵ Đông Khê) - đến trạm thường trực của Sở Chỉ huy tiền phương.

Sau khi nghe đồng chí Hoàng Cầm báo cáo tình hình chuẩn bị chiến đấu của tiểu đoàn, Người hỏi:

- Chú có tin trận này ta nhất định thắng không?

Đồng chí Hoàng Cầm thưa:

- Báo cáo Bác, tin ạ.

Tiếp đó, Chủ tịch nói về tầm quan trọng của chiến dịch đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, giải thích vì sao ta không lấy Cao Bằng làm hướng tiến công chủ yếu, nhấn mạnh công tác nghi binh và bí mật...

- Bác của chúng ta, Nxb. Quân đội nhân dân,  Hà Nội, 1985, tr. 123-125.

Tháng 9, ngày 16

6 giờ, khi tiếng súng tấn công căn cứ điểm Đông Khê đã nổ mở màn cho Chiến dịch Biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đi quan sát trận đánh.

Từ vị trí quan sát đặt trên một ngọn núi có thể nhìn rõ toàn bộ các cứ điểm địch ở Đông Khê.

Trong lúc bộ binh của ta đánh các đồn Phìa Khoá, Yên Ngựa, Cam Phầy thì pháo binh của ta bắn vào đồn chính để phá huỷ pháo và một phần công sự của địch. Địch chống cự rất ác liệt. Đồn chính mờ mịt lửa khói. Máy bay địch lồng lộn trút từng đợt bom xuống những nơi chúng nghi có quân ta. Thả bom xong, máy bay địch tiếp tục bắn phá, có lúc chúng sà xuống thấp, thấp hơn cả ngọn núi Người đứng quan sát. Người như không để ý tới máy bay của địch, vẫn chăm chú theo dõi tình hình chiến đấu và đối chiếu với bản đồ tác chiến.

Xế chiều, Người mới ra về.

Từ trận địa trở về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Tướng Trần Canh- người được Đảng và Chính phủ Trung Quốc cử sang giúp Việt Nam trong Chiến dịch Biên giới. Người vui vẻ chép tặng ông một bài thơ chữ Hán mới làm, nhan đề Đăng Sơn.

ĐĂNG SƠN

Huề trượng đăng sơn quan trận địa,

Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân.

Nghĩa binh tráng khí thốn Ngưu Đẩu 10)

Thệ diệt sài lang xâm lược quân.

Dịch thơ:

LÊN NÚI

Chống gậy lên non xem trận địa,

Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây.

Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu,

Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy 11).

- Đ.K.L.: Theo Bác đi chiến dịch. In trong cuốn Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr. 122-123.

- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1987, tr. 128 (bản Trung văn).

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 121-122.

Tháng 9, ngày 18

Sau khi quân ta chiếm hoàn toàn Đông Khê vào 10 giờ sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Bộ Chỉ huy chiến dịch: "Có thể địch sẽ giành lại Đông Khê để giữ Cao Bằng, hoặc phải đánh lên để đón quân Cao Bằng rút lui". Người vạch ý đồ tác chiến của ta là "nhử thú vào tròng" để "khép vòng lưới thép" tiêu diệt chúng.

- Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1977, tr. 405.

Tháng 9, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 137/SL, sửa đổi điều 6 của Sắc lệnh số 49/SL ngày 18-6-1949 và điều 6 sửa đổi của Sắc lệnh số 79/SL ngày 22-5-1950 về cách tính thuế điền thổ của Bộ luật thuế trực thu.

- Sắc lệnh số 138/SL, sửa đổi Điều 7 Bộ luật thuế trực thu ban hành ngày 18-6-1949 theo Sắc lệnh số 49/SL.

- Sắc lệnh số 139/SL, cho phép phát hành trong toàn quốc một công trái gọi là công trái quốc gia ghi bằng thóc và thu bằng tiền hoặc thóc. Tổng số công trái phát hành ấn định là 100.000 tấn thóc. Công trái được hưởng lãi năm 3% và sẽ hoàn lại vốn sau 5 năm kể từ ngày mua.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 9, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các chiến sĩ bị thương trong trận Đông Khê.

Lời thư có đoạn:

"Chính phủ, đồng bào đều nhớ ơn các chú. Tôi gửi lời khen ngợi các chú và chúc các chú mau lành mạnh để trở lại hàng ngũ tiếp tục chiến đấu giết giặc".

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.126.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 96.

Tháng 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen đồng bào, tướng sĩ Nam Bộ và Nam Trung Bộ "đã kháng chiến 5 năm và đang tiếp tục củng cố bức Thành đồng của Tổ quốc".

Bức thư có đoạn:

"Thực dân xâm lược Pháp dựa vào sự giúp đỡ của bọn can thiệp Mỹ và bù nhìn phản quốc đã bao phen định phá vỡ bức thành này. Nhưng chúng đã thất bại và bức Thành đồng càng ngày càng trở nên vững chắc sau mỗi mưu mô xâm chiếm của giặc.

Được như vậy là nhờ ở ý chí cương quyết của toàn dân, của các tướng sĩ và đồng bào Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ và sự đoàn kết của quân, dân với Chính phủ kháng chiến".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 97.

Tháng 10, ngày 2

Trong Thư gửi nhi đồng cả nước nhân dịp Tết Trung thu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi "Trung thu này, các cháu tiến bộ nhiều, cũng như kháng chiến ta tiến bộ nhiều". Người tin chắc: "Bất kỳ ở đâu, tinh thần các cháu cũng đều hăng hái vui vẻ. Vì các cháu đều biết rằng: giặc Pháp và phản động Mỹ không thể ăn cướp ông trăng Trung thu của các cháu". Người hứa với nhi đồng cả nước: "Đến ngày kháng chiến thắng lợi, thì Bác cháu ta sẽ cùng nhau ăn những cái Tết Trung thu rất vui vẻ, sung sướng tưng bừng".

- Báo Sự thật, số 143, ngày 2-10-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 98-99.

Tháng 10, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới các chiến sĩ mặt trận Cao - Bắc - Lạng sau khi Đông Khê được giải phóng, địch buộc phải rút khỏi Cao Bằng.

Bức điện có đoạn:

"Hiện nay tình hình rất có lợi cho ta. Vậy các chiến sĩ phải quyết tâm tiêu diệt địch cho kỳ hết để giành lấy toàn thắng.

Bác theo dõi cuộc chiến đấu anh dũng của các chú từng giờ. Bác sẽ có giải thưởng đặc biệt cho những bộ đội và chiến sĩ nào lập chiến công nhiều nhất".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 142/SL, bổ nhiệm Phó Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ thay ông Trần Hữu Dực được chỉ định giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 143/SL, bổ nhiệm ông Trần Hữu Dực, nguyên Phó Đổng lý văn phòng Bộ Nội vụ giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Bộ Tổng tư lệnh.

- Sắc lệnh số 144/SL, thành lập trong Bộ Canh nông một vụ hợp tác xã nông nghiệp chuyên trách về các tổ chức hợp tác nông nghiệp trong toàn quốc.

- Sắc lệnh số 145/SL, bổ nhiệm Giám đốc Vụ Hợp tác xã nông nghiệp Bộ Canh nông.

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr. 88.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 102.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 8

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các chiến sĩ ở mặt trận Đông Khê sau khi binh đoàn Lơpagiơ bị tiêu diệt. Người viết: "Từ ngày kháng chiến đến nay, trận này là trận đầu tiên bộ đội ta đánh vận động liên tiếp luôn mấy ngày. Đó là một cuộc thử thách lớn...

Các chú đã hoàn thành bảy phần mười cuộc thử thách một cách dũng cảm. Các chú cố gắng mà tiêu diệt nốt binh đoàn Sáctông nhé.

Bác và Tổng Tư lệnh đã ra lệnh khao các chú một bữa thịt bò".

Cùng ngày, Người làm việc với Tướng Trần Canh, cố vấn quân sự Trung Quốc.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 103.

- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1987, tr. 131 (bản Trung văn).

Tháng 10, trước ngày 9

Trong không khí chiến thắng của Chiến dịch Biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng Tướng Trần Canh một chai rượu sâm banh chiến lợi phẩm kèm theo một bài thơ chữ Hán. Bài thơ mượn ý bài Lương Châu từ của Vương Hàn, nhà thơ đời Đường (Trung Quốc), để diễn tả vui mừng trước thắng lợi:

"Hương tân" mỹ tửu dạ quang bôi,

Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.

Túy ngoạ sa trường quân mạc tiếu

Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.

Dịch thơ:

"Sâm banh" rượu ngọt chén lưu ly,

Toan nhắp, tỳ bà dục ngựa đi.

Say khướt sa trường cười chớ vội,

Chẳng cho địch thoát một tên về 12).

- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1990, tr. 39-40.

Tháng 10, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi Tướng Trần Canh một bức thư bằng chữ Hán. Toàn văn bức thư (dịch sang tiếng Việt) như sau:

"Anh Đông 13):

1- Cần đề phòng máy bay địch bắn phá.

2- Đề nghị viết tóm tắt lại thành văn bản mấy điểm trước mắt chúng tôi cần làm mà hôm qua anh nói với tôi. Ví dụ:

a/ Khen thưởng bộ đội, động viên nhân dân

b/ Sửa đường, chuẩn bị "rời đô"

c/ Huấn luyện cán bộ, chấn chỉnh bộ đội...

d/ Tạm thời xác định phương hướng trận đánh sau, chuẩn bị triển khai chiến dịch này...

Chúc anh mạnh khoẻ.

9/10

Đinh của anh 14)".

- Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Giải phóng quân, Bắc Kinh, 1987, tr. 131 (bản Trung văn).

- Sách ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc, Bắc Kinh, 1995, tr. 46.

Tháng 10, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 146/SL, chỉ định ông Trần Sâm, Tư lệnh Bộ Tư lệnh địa phương Liên khu IV, làm Uỷ viên quân sự Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV.

- Sắc lệnh số 147/SL, quy định "các uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp xã, tỉnh, từ nay trở đi lại bầu theo thể lệ cũ như đã định trong Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 và thủ tục giải quyết trong những trường hợp đặc biệt.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 10, ngày 11

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Đại đoàn Thất Khê (Đại đoàn 308).

Nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ, Người phân tích tình hình thế giới, trong nước, ý nghĩa thắng lợi của Chiến dịch Biên giới. Người nhắc nhở một số cán bộ không nên bắt chước lối ăn mặc của địch dây dợ lằng nhằng ở vai, ở túi...

- Phạm Chí Nhân: Điện Biên Phủ - lắng đọng và suy ngẫm, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1994, tr. 36.

Tháng 10, ngày 12

Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi ông Phan Phác, Tổng Tham mưu phó, trực tiếp phụ trách Ban tham mưu Mặt trận Biên giới, yêu cầu đưa Người đến gặp nhóm sĩ quan cao cấp Pháp vừa bị ta bắt trong chiến dịch.

Sau đó, với danh nghĩa "Cố vấn chính trị của mặt trận", Người cải trang giống như một người bị thương ở đầu đến gặp các tù binh: Trung tá Lơpagiơ, chỉ huy binh đoàn Baya và Thiếu tá quân y Đuyarít.

Tiếp đó, Người gặp Trung tá Sáctông, chỉ huy trưởng phân khu Cao Bằng.

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

- Bác Hồ gặp các tù binh sĩ quan Pháp trong Chiến dịch Biên giới, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 22, tháng 10-1987.

Tháng 10, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, gửi thư cám ơn và khen ngợi đồng bào Cao - Bắc - Lạng nhân dịp chiến thắng Biên giới.

Người căn dặn: "Để tiêu diệt hết giặc Pháp, để chống lại bọn can thiệp Mỹ, để giải phóng hoàn toàn Tổ quốc, chúng ta còn phải vượt qua bao nhiêu sự khó khăn cực khổ nữa. Chúng ta chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch". Và kêu gọi: "Đồng bào Cao - Bắc - Lạng đã làm kiểu mẫu trong việc động viên nhân lực, vật lực, tài lực cho kháng chiến. Tôi chắc rằng đồng bào ba tỉnh ta sẽ luôn luôn cố gắng thêm để giữ lấy địa vị vẻ vang".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 104-105.

Tháng 10, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị tổng kết Chiến dịch Lê Hồng Phong II 15).

Trong bài phát biểu, Người lưu ý một số điểm cụ thể cần tổng kết: đề cao kỷ luật; triệt để thi hành mệnh lệnh cấp trên; thương yêu đội viên; tôn trọng nhân dân; giữ gìn của công và chiến lợi phẩm; thành thật tự phê bình và phê bình. Người rút ra bài học kinh nghiệm lớn: 1- Trung ương lãnh đạo sáng suốt. Các cấp địa phương chỉ đạo đúng đắn. Các cơ quan quân, dân, chính đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, hành động nhất trí; 2- Chiến sĩ ta rất hăng hái, anh dũng; 3- Nhân dân ta rất tốt; 4- Giặc chủ quan. Ngoài ra, Người còn đề cập đến một số điểm vềcông tác tuyên truyền; chống tư tưởng chủ quan khinh địch; phải tranh thủ thời gian và phải tuyệt đối giữ bí mật.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 108-112.

Tháng 10, ngày 30

Trong Lời kêu gọi và khuyên nhủ các chiến sĩ, đăng trên báo Sự thật, số 147, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Trong trận này, ta đã giành hai thắng lợi: "Thắng lợi thứ nhất, chúng ta đã tiêu diệt địch và đã giải phóng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê. Thắng lợi thứ hai là ta đã thấy rõ những ưu điểm và khuyết điểm của ta". Người căn dặn: "Chúng ta chớ vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan khinh địch. Chúng ta phải nhớ rằng: trong toàn cuộc trường kỳ kháng chiến thì thắng lợi này chỉ mới là một bước đầu. Chúng ta còn phải đánh và phải thắng nhiều trận gay go hơn, to tát hơn nữa mới đi đến thắng lợi hoàn toàn".

- Báo Sự thật, số 147, ngày 30-10-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 106-107.

Tháng 10, khoảng cuối tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Bệnh viện Thuỷ Khẩu 16).

Người đi một vòng qua cả ba khu điều trị, đến tận giường thăm hỏi từng thương binh bất động. Gặp gỡ và nói chuyện với thương binh nhẹ tại vườn chuối của bệnh viện, Người báo tin: "Quân ta thắng lợi rồi, ta không còn bị bao vây, cửa đã mở ra thế giới, Đảng và Bác không quên công lao của các chiến sĩ đã ngã xuống hoặc bị thương tật".

Sau đó, Chủ tịch tiếp chuyện thân mật với một số cán bộ, nhân viên Trung Quốc công tác tại bệnh viện.

- Lịch sử Quân y viện 108 anh hùng, Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, 1990, tr. 15.

Tháng 11, ngày 6

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Đại nguyên soái Xtalin nhân kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 149/SL, bổ nhiệm Phó Văn phòng Phủ Thủ tướng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 113.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 150/SL, về việc giam giữ phạm nhân và trách nhiệm của Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp đối với việc tổ chức và kiểm soát các trại giam trong phạm vi toàn quốc.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 9

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho họ Nguyễn Sinh khi nhận được tin ông Nguyễn Sinh Khiêm mất. Toàn văn bức điện như sau:

"Gửi họ Nguyễn Sinh

Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.

Than ôi! Tôi chịu tội bất đễ 17) trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng 18) cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước.

Ngày 9 tháng 11 năm 1950

HỒ CHÍ MINH".

- Bản chụp bức điện, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 114.

Tháng 11, ngày 10

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Quyết định số 147-C/QĐ thành lập Đoàn Thanh tra đặc biệt đi thanh tra việc sử dụng ngân sách của Bộ Quốc phòng. Đoàn gồm:

- Ông Hồ Tùng Mậu, Tổng Thanh tra Chính phủ, Trưởng đoàn.

- Ông Tô Quang Đẩu, thanh tra Chính phủ, đoàn viên.

- Ông Trần Hữu Dực, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, đoàn viên.

- Bản chụp Quyết định, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, đầu tháng

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi cán bộ tỉnh Bắc Cạn, căn dặn những việc phải làm như: thu mua thóc kịp thời, đắp đường sửa đường, tranh thủ gặt hái, thực hiện "chén gạo tiết kiệm", tổ chức "quán nghỉ cán bộ", chấn chỉnh lề lối làm việc, "giản chính, tinh cán". Người yêu cầu phải thường xuyên báo cáo với Người kết quả những việc trên - cả khuyết điểm và ưu điểm.

- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bắc Thái: Bác Hồ với Bắc Thái, tr. 31-32.

Tháng 11, ngày 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi các bạn nam nữ Pháp đấu tranh cho hoà bình. Người nêu rõ:

"Cuộc chiến tranh trên đất nước chúng tôi là để sửa soạn cho một cuộc chiến tranh đế quốc khác. Vì vậy trong khi chiến đấu để bảo vệ hoà bình thế giới, các bạn đồng thời làm một việc rất đúng là mở một chiến dịch mạnh mẽ đòi đình chỉ ngay tức khắc cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Không phân biệt nam nữ, trẻ già, thợ thuyền, nông dân hay trí thức, các bạn đã đoàn kết để cùng góp phần cố gắng và quyết tâm của mình, chúng tôi kính phục và theo dõi cuộc đấu tranh của các bạn.

Về phần chúng tôi, trong khi chiến đấu để giải phóng Tổ quốc, chúng tôi đồng thời cũng đang làm suy yếu đế quốc Pháp, một trong những kẻ gây chiến tranh thế giới.

Tất cả chúng ta đều gắng sức theo đuổi một mục đích, nhất định những cố gắng của chúng ta chẳng bao lâu sẽ đưa bọn đế quốc đến chỗ thất bại hoàn toàn".

- Báo Cứu quốc, số 1687, ngày 11-11-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 115-116.

Tháng 11, trước ngày 14

Nhân dịp nhà báo Lêô Phighe, đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, sang thăm Việt Nam trở về Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viếtThư gửi các bà mẹ và vợ Pháp có con và chồng chết trận ở Việt Nam.

Thư cho biết, những binh lính sĩ quan Pháp bỏ mình trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, chỉ có một số rất ít thi hài được chở về cho gia đình họ, còn phần lớn đã bị bọn chỉ huy cho san phẳng mồ mả để che giấu những thất bại to lớn của chúng. Tất nhiên vẫn còn những nấm mồ thoát khỏi hành vi tàn bạo ấy. Đối với những nấm mồ này, "chúng tôi tự coi có bổn phận thiêng liêng phải giữ gìn nguyên vẹn để sau này, khi chiến tranh chấm dứt, các bà có thể mang hài cốt của chồng con mình về quê cha đất tổ". Việc làm đó, "mong rằng có thể làm dịu nhiều những nỗi đau khổ của các bà".

Thư cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những bà mẹ và bà vợ đã hăng hái đấu tranh đòi hồi hương đạo quân viễn chinh và chấm dứt cuộc chiến tranh đầy tội ác này.

- Báo Cứu quốc, số 1689, ngày 14-11-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 119-120.

Tháng 11, ngày 14

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Công điện số 508/D cho đồng bào Sơn Hà (Quảng Ngãi)­­­­­­­­­­­­ khi nhận được tin do sai lầm của một số cán bộ nên một bộ phận đồng bào ở đây đã bị địch lợi dụng, gây rối loạn trị an, làm hại đến đoàn kết.

Người khuyên đồng bào "mau mau tỉnh ngộ, trở về yên phận làm ăn, chớ nghe lời giặc lừa phỉnh" và "rất mong đồng bào nghe theo lời thân ái đoàn kết của tôi, mau mau quay về với Chính phủ".

Người đề nghị: "Nếu cán bộ địa phương có điều gì sai lầm, nếu đồng bào có việc gì oan ức, thì đồng bào phái đại biểu đến trình bày với tôi và Chính phủ", "Tôi và Chính phủ sẽ trừng trị những cán bộ có lỗi, và sẽ làm cho đồng bào khỏi oan ức".

Cùng ngày, Người gửi Mật điện số 509/D cho cán bộ chính quyền và đoàn thể miền Nam Trung Bộ, nêu những "khuyết điểm nặng" trong vụ Sơn Hà và trong việc động viên tài lực của dân. Người yêu cầu các cán bộ "phải dùng phê bình và tự phê bình, từ trên xuống, từ dưới lên, kiên quyết sửa chữa cho kỳ sạch" những khuyết điểm đó.

- Tài liệu lưu trữ của Cục Lưu trữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 117-118.

Tháng 11, trước ngày 15

Được tin một số đông binh sĩ Pháp ở Đông Dương về nước đã thành lập một tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình, đòi hồi hương các bạn đồng ngũ đang buộc phải tham gia cuộc chiến ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới những người bạn Pháp đó.

Bức thư có đoạn:

"Nhân dân Việt Nam rất biết ơn sự cố gắng của các bạn cũng như đã biết ơn sự cố gắng của các bà mẹ và những người lao động Pháp. Nhìn vào hành động của các bạn, nhân dân Việt Nam thấy rằng mình đang có hàng triệu người bạn trung thành ở ngay nước Pháp. Họ đã không bao giờ nhầm lẫn bọn đế quốc Pháp với nhân dân Pháp mà họ muốn thắt chặt mãi thêm mối dây thân hữu".

- Báo Cứu quốc, số 1690, ngày 15-11-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 121.

Tháng 11, từ ngày 15 đến ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp Hội đồng Chính phủ để nghe báo cáo tình hình thế giới và trong nước từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 11, tình hình quân sự trong mùa thu, đặc biệt là về Chiến dịch Biên giới, và bàn một số vấn đề quan trọng khác.

Kiểm điểm về vụ Trần Dụ Châu 19), sau khi nghe Bộ Quốc phòng trình bày vụ án và nghe Hội đồng Chính phủ nhận xét, cho ý kiến khắc phục, sửa chữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận và rút ra một số bài học. Người nói đại ý: Về vụ Trần Dụ Châu, chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm, chúng ta không có chính sách cán bộ đúng. Chúng ta sinh trưởng trong một xã hội lạc hậu, nhiễm thực dân phong kiến, xã hội cũ hám danh hám lợi, danh lợi dễ làm hư người... Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không có chính sách cải tạo cán bộ, đó là khuyết điểm. Chính sách cán bộ thế nào? Lúc tìm người phải tìm cả tài, cả đức, chú trọng tư tưởng. Nếu cán bộ biết thương dân, tiếc của dân thì không xảy ra việc đáng tiếc. Đồng thời, phải giáo dục, cải tạo, kiểm tra cán bộ.

Người yêu cầu phải đẩy mạnh việc tự phê bình và phê bình: "Chúng ta hay nể nả. Mình chỉ biết mình thanh liêm là đủ. Quan niệm "thanh cao tự thủ" là không đủ. Tất cả chúng ta phụ trách trước nhân dân, trong anh em phải có tự phê bình và phê bình... Phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo tự phê bình và phê bình".

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, ngày 17

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Thư gửi Hội nghị hoà bình ở Việt Nam 20).

Người khẳng định: "Muốn giữ hoà bình một cách thiết thực thì phải ra sức chống đế quốc chủ nghĩa", và cuộc kháng chiến Việt Nam chính là "đang chặt cái gốc chiến tranh đế quốc, đang giúp sức bảo vệ hoà bình". Vì vậy, nhiệm vụ của mọi người là "đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ toàn dân Việt Nam, để kháng chiến lâu dài, để đánh tan bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ".

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 151/SL, bổ sung quyền hạn và lề lối làm việc của Hội thẩm nhân dân các cấp huyện và tỉnh.

- Sắc lệnh số 152/SL, quy định việc truy tố những công chức làm việc tại các cơ quan trung ương và các ngành thuộc phạm vi liên khu bị phạm pháp.

- Sắc lệnh số 153/SL, quy định Hội đồng nhân dân tỉnh họp thường kỳ ba tháng một lần.

- Sắc lệnh số 154/SL, quy định những kỷ luật đối với công chức, quân nhân, dân thường làm lộ bí mật của cơ quan hay công việc của Chính phủ.

- Sắc lệnh số 155/SL về việc thành lập Toà án quân sự liên khu.

- Sắc lệnh số 156/SL, về việc thiết lập Toà  án nhân dân liên khu.

- Sắc lệnh số 157/SL, về việc thiết lập Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm.

- Sắc lệnh số 158/SL, về việc đưa những cán bộ công nông có thành tích, kinh nghiệm vào các ngạch thẩm phán theo đề nghị của một Hội đồng tuyển chọn.

- Sắc lệnh số 159/SL, ấn định những trường hợp được ly hôn, thủ tục ly hôn và hiệu lực của việc ly hôn.

- Sắc lệnh số 160/SL, về việc thành lập Vụ Hình - Hộ trong Bộ Tư pháp.

- Sắc lệnh số 161/SL, bổ nhiệm Đổng lý văn phòng Bộ Tư pháp.

- Sắc lệnh số 162/SL, về việc thành lập Nha Công chính trực thuộc Bộ Giao thông Công chính.

- Sắc lệnh số 163/SL, về việc hạn chế giết trâu bò trong toàn quốc nhằm phát triển chăn nuôi, lợi cho tăng gia sản xuất và hợp với chính sách tiết kiệm chung.

- Sắc lệnh số 164/SL, về việc cải tổ Nha khẩn hoang di dân thành Sở doanh điền thuộc Bộ Canh nông.

- Sắc lệnh số 165/SL, bổ nhiệm ông Lê Duy Thước, Phó Đổng lý văn phòng Bộ Canh nông, kiêm chức Giám đốc Sở doanh điền thuộc Bộ Canh nông.

- Sắc lệnh số 166/SL, về việc tách Nha Kỹ nghệ thuộc Bộ Kinh tế thành hai nha: Nha Công nghệ và Nha Tiểu công nghệ. Mỗi nha do một Giám đốc và một Phó Giám đốc điều khiển.

- Sắc lệnh số 167/SL, bãi bỏ Sắc lệnh số 221/SL ngày 20-8-1948; cho phép Bộ trưởng Bộ Kinh tế, trong thời kỳ kháng chiến, có thể ban hành bằng nghị định những thể lệ đặc biệt để ngăn ngừa những luồng thương mại có hại cho dân sinh.

- Sắc lệnh số 168/SL, về việc thành lập Sở Nội thương trực thuộc Bộ Kinh tế.

- Sắc lệnh số 169/SL, sửa đổi điều 2 và điều 3 của Sắc lệnh số 8/SL ngày 23-2-1949 về việc hoá giá và thủ tục định giá tối đa.

- Sắc lệnh số 170/SL, giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh, tuỳ mức độ nghiêm trọng của các hạng phạm pháp, có thể tịch thu, xử phạt hoặc truy tố bị can sau khi hỏi ý kiến Ty Kinh tế.

- Sắc lệnh số 171/SL, ân giảm cho một phạm nhân từ tội tử hình xuống khổ sai chung thân.

- Sắc lệnh số 172/SL, về việc thành lập trong Bộ Giáo dục một Vụ Văn học Nghệ thuật gồm các ngành văn hoá (văn, sử, địa, triết học, kinh tế học, ngôn ngữ, văn tự) và các ngành nghệ thuật (âm nhạc, ca kịch, hội họa, kiến trúc).

- Sắc lệnh số 173/SL, bổ nhiệm ông Hoài Thanh giữ chức Giám đốc Vụ Văn học Nghệ thuật thuộc Bộ Giáo dục.

- Sắc lệnh số 174/SL, bổ nhiệm Phó Giám đốc Nha Bình dân học vụ.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 123-124.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 11, trước ngày 27

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các nhà báo trong nước và nước ngoài.

Trả lời những câu hỏi về Chiến dịch Biên giới, Người nêu rõ kết quả, nguyên nhân, ý nghĩa quan trọng của thắng lợi đó và chỉ rõ: "Sau thắng lợi này, một điều mà quân và dân ta phải giữ là tuyệt đối không được vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch. Trái lại, chúng ta phải cố gắng hơn nữa, cẩn thận hơn nữa, kiên quyết hơn nữa".

Về kết quả thi đua trong năm, Người nói: "Thành tích rất khá vì dân chúng rất hăng hái". Tuy vậy, phong trào thi đua vẫn còn nhiều khuyết điểm, như: đặt kế hoạch chưa sát; việc đôn đốc theo dõi, giúp đỡ còn kém; việc tổng kết kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm làm chưa tốt. Chủ tịch nhấn mạnh: "Chúng ta cố gắng sửa chữa những khuyết điểm đó - mà việc này thì các báo chí phải gánh một phần trách nhiệm - thì thi đua ái quốc chắc sẽ có những thành tích tốt đẹp gấp bội".

- Báo Sự thật, số 151, ngày 27-11-1950.

Tháng 11, ngày 27

Bốn bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thư gửi chiến sĩ và cán bộ Hoà Bình, Thư gửi chiến sĩ và cán bộ Lào Cai, Thư gửi đồng bào Hoà Bình Thư gửi đồng bào Lào Cai, đăng trên báo Sự thật, số 151.

Trong các bức thư, Người thay mặt Chính phủ khen ngợi chiến công của các chiến sĩ, cán bộ hai tỉnh Hoà Bình, Lào Cai; thân ái an ủi toàn thể đồng bào hai tỉnh "đã mấy năm, đồng bào sống cực khổ dưới gót sắt giặc Pháp dã man, chịu đủ sự áp bức tàn nhẫn"; và căn dặn những công việc mà các chiến sĩ, cán bộ và đồng bào hai tỉnh cần làm ngay.

- Báo Sự thật, số 151, ngày 27-11-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 125-128.

Tháng 11

Sau chiến thắng Biên giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết gửi luật sư Phan Anh mấy vần thơ:

Đất chuyển, trời xoay, bể mịt mù.

Thu này, kháng chiến đã ba thu.

Hoàn toàn thắng lợi, vài thu chắc.

Một túi thơ tiên, rượu một bù... 21).

- Thơ ca chiến khu của Chủ tịch Hồ Chí Minh,  Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr. 367.

- Báo Giáo dục và thời đại, ngày 13-12-1996.

Tháng 11

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới toàn thể phụ lão xã Vĩnh Đồng, châu Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình.

Người thăm hỏi và căn dặn đồng bào, quân đội, chính quyền và đoàn thể trong tỉnh phải: Đoàn kết chặt chẽ; Thi đua ủng hộ kháng chiến; Thi đua tăng gia sản xuất; Thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính và chớ chủ quan khinh địch, phải cẩn thận đề phòng.

Người mong "mọi người cố gắng làm tròn nhiệm vụ để góp một phần xứng đáng vào cuộc kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công".

- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Sơn Bình: Bác Hồ với cán bộ và nhân dân các dân tộc Hà Sơn Bình, 1980, tr. 28-29.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 131-132.

Tháng 12, ngày 1

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 176/SL, bổ nhiệm Giám đốc Vụ Hình - Hộ Bộ Tư pháp.

- Sắc lệnh số 177/SL, chuẩn y cho ông Dương Ngà, Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính Hà Nội, được từ chức.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 17

Chiều, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm Hội nghị Ban Kinh tế Chính phủ (họp từ ngày 15).

Tối, Người nói chuyện với hội nghị về tình hình thế giới.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 338.

Tháng 12, từ ngày 18 đến ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ phiên họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ để xem xét tình hình thế giới  từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12, kiểm điểm công tác của chính quyền trong năm 1950, kiểm điểm tình hình một năm chuẩn bị tổng phản công, thông qua chương trình hoạt động năm 1951 và quyết định về một số vấn đề quan trọng.

Tổng kết Hội nghị, sau khi nhắc lại những nhiệm vụ nặng nề của Chính phủ, của các cấp các ngành chính quyền, của các đoàn thể và của toàn dân, Người nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của chúng ta không những là phải giải phóng đất nước, xây dựng một nước Việt Nam mới - độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường, mà còn phải góp sức vào công cuộc bảo vệ hoà bình và dân chủ thế giới".

Tối ngày 19, để kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến, Người cho tổ chức lửa trại và liên hoan văn nghệ. Các vị trong Quốc hội và Chính phủ đều tham gia. Người cũng tham gia một tiết mục: đọc thơ của vợ chồng một ông cụ trên 70 tuổi gửi tiền biếu Người.

- Bản sao Biên bản Hội đồng Chính phủ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

- Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t. 2, tr. 338-339, 341.

Tháng 12, ngày 19

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm một năm ngày Toàn quốc kháng chiến.

Đánh giá sự thay đổi lực lượng giữa địch và ta mấy năm vừa qua, Người chỉ rõ: "Tình thế bên địch ngày càng khó khăn", còn "ta đã từ bị động chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển dần sang thế mạnh, từ thế thủ chuyển dần sang thế công".

Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước:

"Tuyệt đối chớ vì thắng mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch. Chúng ta phải nhớ rằng: càng gần thất bại, địch càng cố gắng, càng hung dữ, càng liều mạng. Càng gần thắng lợi ta càng gặp nhiều sự gay go. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng tinh thần và lực lượng để đối phó với những khó khăn mới".

Cùng ngày, nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân giải phóng Việt Nam, Người gửi thư tới Quân đội quốc gia, bộ đội địa phương và dân quân Việt Nam.

Bức thư có đoạn:

"Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân nên hy sinh kham khổ.

Quân đội ta luôn luôn giữ gìn và phát triển truyền thống anh dũng của Quân giải phóng Việt Nam và đạo đức cách mạng gồm 10 điều kỷ luật.

Với quân đội ấy, kháng chiến nhất định thắng lợi".

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 477/SL, tặng thưởng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam, HUÂN CHƯƠNG HỒ CHÍ MINH HẠNG BA về thành tích: "Đã chỉ huy quân đội và dân quân chiến thắng giặc trong 5 năm kháng chiến trên các chiến trường, đặc biệt trong trận bảo vệ Việt Bắc - Thu Đông 1947 và trong Chiến dịch giải phóng biên giới mùa thu 1950".

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 133-136.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 20

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Liên khu IV do ông Lê Viết Lượng, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV làm Trưởng đoàn. Người nghe ông Lượng báo cáo tình hình mọi mặt của các tỉnh trong Liên khu, và căn dặn các vị trong Đoàn phải chú ý chăm lo sản xuất và chăm lo đời sống của nhân dân, phải đi sát dân giúp đỡ kế hoạch và động viên nhân dân sản xuất, chiến đấu.

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký:

- Sắc lệnh số 180/SL, về việc truy tố trước Toà án quân sự những người đầu cơ tiền tệ, làm giấy bạc giả, lưu hành giấy bạc giả, tàng trữ hay lưu hành những giấy bạc của địch đã có lệnh cấm; những người có những hoạt động có tính cách phá hoại nền tài chính quốc gia.

- Sắc lệnh số 181/SL, duyệt y và cho phép thi hành kể từ ngày 1-1-1951 ngân sách toàn quốc tài khoá 1951.

- Sắc lệnh số 182/SL, ấn định mức thuế xuất các loại thuốc lào, thuốc lá là 15% giá bán buôn.

- Sắc lệnh số 183/SL, bổ nhiệm Giám đốc Nha Công nghệ; Giám đốc và Phó Giám đốc Nha Tiểu công nghệ.

- Sắc lệnh số 184/SL, bổ nhiệm Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Bộ Tổng tư lệnh.

- Sắc lệnh số 185/SL, chỉ định người vào Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III, thay ông Đặng Kim Giang được cử giữ chức vụ khác.

- Sắc lệnh số 186/SL, cho phép Bộ Giao thông công chính phát hành một loại tem thư có in hình Chủ tịch
Hồ Chí Minh.

- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ An: Nghệ An trong lòng Bác, 1974, tr. 14-18.

- Bản chụp Sắc lệnh, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 23

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc.

- Tài liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 24

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư Gửi các tù binh Pháp đang bị giam giữ tại Việt Nam.

Bức thư viết:

"Các bạn thân mến,

Tôi xin chúc các bạn một Nôen tốt đẹp. Đành rằng các bạn còn thiếu thốn rất nhiều cho lễ đó, nhưng lỗi là thuộc về phía thực dân Pháp...

Nhân dân Việt Nam xem các bạn như những người bạn và tìm mọi cách để cuộc sống của các bạn được tốt hơn.

Hãy kiên nhẫn và giữ gìn kỷ luật.

Một lần nữa, chúc các bạn một Nôen, một năm mới
tốt đẹp.

H.C.M"

- Bút tích bức thư. Bản chụp lưu tại Bảo tàng  Hồ Chí Minh.

Tháng 12, ngày 25

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nôen.

Bức thư có đoạn:

"Lâu nay, đồng bào đã ghi nhớ lời dạy của Đức Chúa và lời kêu gọi của Tổ quốc, đã đoàn kết và kháng chiến.

Ngày nay, cuộc kháng chiến cứu nước đang chuyển sang giai đoạn mới, đồng bào càng phải vì Đức Chúa, vì Tổ quốc mà đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, kháng chiến hăng hái hơn nữa, để sớm đến ngày thắng lợi và thái bình".

- Báo Cứu quốc, số 1718, ngày 25-12-1950.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 137.

Tháng 12

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới các chiến sĩ và cán bộ tham gia Chiến dịch Trung du21, căn dặn:

"Lần này các chú phải cố gắng hơn nữa, vì chiến dịch này rất là quan trọng. Vả chăng, chiến dịch này là lần đầu tiên ta đánh ở đồng bằng, và địch thì có chuẩn bị.

Chính vì lẽ đó mà ta quyết phải thắng".

Người nhắc nhở:

"Mỗi một người, mỗi một đơn vị, mỗi một bộ phận đều phải:

Bí mật hơn

Nhanh chóng hơn

Kiên quyết hơn.

Chiến dịch này, các chú nhất định phải đánh thắng".

- Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.145-146.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 138.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho "chú Vĩnh" 22), hỏi vấn đề "áo và chăn cho chiến sĩ đã có bao nhiêu? Chừng nào thì có đủ? Đoàn thể và Chính phủ có thể giúp bằng cách gì nữa để bộ đội mau có áo, chăn? Gạo ăn mùa sau cho bộ đội yên tâm rồi chứ?!".

Cuối thư, Người không quên "hỏi thăm thím và hôn hai cháu".

- Báo Cựu chiến binh Việt Nam, số 48, 1994.

Trong năm

Nghe tin luật sư Phan Anh ốm nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi mấy vần thơ theo lối "Chinh phụ ngâm":

Điện thường tới, Người chưa thấy tới.

Bức màn thưa từng dõi bóng dương.

Bóng dương mấy lúc xuyên ngang,

Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai.

- Thơ ca chiến khu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2001, tr. 363.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ chữ Hán: Vô đề

VÔ ĐỀ

Sơn kính khách lai, hoa mãn địa,

Tùng lâm quân đáo, điểu xung thiên.

Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu,

Huề dũng giai đồng quán thái viên.

Dịch thơ:                      

KHÔNG ĐỀ

Đường non khách tới hoa đầy,

Rừng sâu quân đến, tung bay chim ngàn.

Việc quân, việc nước đã bàn,

Xách bương, dắt trẻ ra vườn tưới rau 23).

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 115-116.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 139.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ chữ Hán: Tư chiến sĩ.

TƯ CHIẾN SĨ

Canh thâm lộ cấp như thu vũ,

Thần tảo sương nùng tự hải vân

Khoái tống hàn sam cấp chiến sĩ,

Dương quang hoà noãn báo tân xuân.

 

Dịch thơ:                      

NHỚ CHIẾN SĨ

Đêm khuya móc tựa mưa thu,

Sớm sương dày đặc, mây mù biển dăng

Mau mau gửi các chiến trường,

Áo cho chiến sĩ trên đường lập công.

Mặt trời toả ánh nắng hồng,

Báo tin xuân đến, mùa đông sắp tàn 24).

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 117-118.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 140.

Trong năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài thơ chữ Hán: Đối nguyệt.

ĐỐI NGUYỆT

Song ngoại nguyệt minh lung cổ thụ,

Nguyệt di thụ ảnh đáo song tiền,

Quân cơ, quốc kế thương đàm liễu,

Huề chẩm song bàng đối nguyệt miên.

 

Dịch thơ:

ĐỐI TRĂNG

Ngoài song, trăng rọi cây sân,

Ánh trăng nhích bóng cây gần trước song.

Việc quân, việc nước bàn xong,

Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm 25).

- Hồ Chí Minh: Thơ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 119-120.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 141.

-----------------

Chú thích

1) Trên đầu bức thư có ghi: "Thư này phải đưa đọc đến tận các xã trong Liên khu, trước hết tại các xã đã xảy ra những việc ép uổng dân như đã nêu rõ trong thư của Phó Thủ tướng. Khi đọc khắp rồi, phải báo cáo dư luận của đồng bào thế nào. Không được đăng báo".

2) Danh sách gồm 35 vị có tên trong Sắc lệnh (B.T).

3) Miên: Campuchia (B.T).

4) Ai Lao: Lào (B.T).

5) Chứng bệnh liệt nửa người (B.T).

6) Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ bảy khai mạc ngày 1-8-1950 với sự chủ toạ của đồng chí Trường Chinh bàn mấy vấn đề quan trọng:

1- Đảng ra công khai và tên Đảng. 2- Chính cương của Đảng. Theo đề án của Trung ương, khi ra công khai, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Cuộc thảo luận hết sức sôi nổi. Có hai ý kiến, một nửa chủ trương giữ tên Đảng Cộng sản Đông Dương, nửa khác đồng ý với đề án của Trung ương, không ý kiến nào được đa số (Theo Lê Văn Hiến: Nhật ký của một Bộ trưởng, Nxb. Đà Nẵng, 1995, t.2, tr. 269).

7) Tên thật là Ernest Frey, quốc tịch Áo, đảng viên cộng sản, tham gia chiến đấu trong quân đội Việt Nam, đã được nhập quốc tịch Việt Nam.

8) Păngđi, từ thể hiện sự kính trọng và thân mật (B.T).

9) Tháng 8-1950, tại thành phố Asam (Ấn Độ) xảy ra nạn động đất, gây thiệt hại lớn (B.T).

10) Ngưu Đẩu: tức sao Khiên Ngưu và sao Bắc Đẩu, hai vì sao trong nhị thập bát tú (B.T).

11) Bản dịch của Xuân Diệu (B.T).

12) Bản dịch của Phan Văn Các (B.T).

13) Mật danh của Tướng Trần Canh (B.T).

14) Mật danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (B.T).

15) Tức Chiến dịch Biên giới. Hội nghị họp từ ngày 23 đến ngày 28-10-1950 tại Lam Sơn (Cao Bằng) (B.T).

16) Bệnh viện của Bộ Quốc phòng đặt trên đất Trung Quốc, có nhiệm vụ cứu chữa các thương binh trong Chiến dịch Biên giới. Bệnh viện có 60 cán bộ nhân viên Trung Quốc giúp đỡ (B.T).

17) Bất đễ: không trọn tình anh em (B.T).

18) Nguyên lượng: thứ lỗi, tha thứ (B.T).

19) Trần Dụ Châu, nguyên Đại tá, Giám đốc Nha Quân nhu đã phạm tội tham ô, biển thủ công quỹ hàng trăm triệu đồng (tiền kháng chiến) để sống xa hoa truỵ lạc, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng và quân đội. Toà án binh đã truy tố và kết án tử hình Trần Dụ Châu.

20) Đây là Hội nghị thành lập Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, họp ngày 19-11-1950 (B.T).

21) Một bầu (B.T).

22) Bí danh của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu (B.T).

23) Bản dịch của Xuân Thuỷ (B.T).

24) Bản dịch của Sóng Hồng (B.T).

25) Bản dịch của Nam Trân (B.T).

* Chú thích và bản chỉ dẫn tên người

CHÚ THÍCH

1. Liên hiệp Pháp (Union Française): Do Pháp lập ra đầu năm 1946 nhằm tập hợp và duy trì ảnh hưởng của Pháp ở các nước thuộc địa cũ. Khối Liên hiệp Pháp bao gồm nước Pháp, đất thuộc Pháp ở hải ngoại, và các quốc gia liên kết với Pháp.

Để tỏ thiện chí, đầu năm 1946, ta đồng ý tham gia Khối Liên hiệp Pháp trên cơ sở Pháp công nhận nền độc lập và thống nhất của ta. Lập trường của Việt Nam trong vấn đề này là: với tư cách một nước trong khối, Việt Nam chịu ràng buộc theo quy ước chứ không phải theo hiến pháp; không cần phải có đại biểu trong Hội đồng liên bang nhưng phải có đặc sứ ở Pháp; Việt Nam có thể nhận cố vấn Pháp, nhưng không thể bị bắt buộc nhận họ ở tất cả các ngành hoạt động quốc gia; Việt Nam có quyền gửi thẳng sứ thần ra nước ngoài, cũng có thể nhờ Pháp thay mặt ngoại giao với một số nước nhất định, có quyền gia nhập Liên hợp quốc, ký kết những hiệp ước liên minh với các nước miễn là không nhằm mục đích chống lại Pháp; về kinh tế, Việt Nam tiêu thụ hàng hoá của Pháp, cung cấp nguyên liệu cho Pháp, đồng thời Pháp phải cung cấp máy móc, dụng cụ, giúp đỡ phát triển kỹ nghệ cho Việt Nam, v.v..

Nước Pháp đã không chấp nhận Việt Nam tham gia Khối Liên hiệp Pháp. Đến năm 1958, tổ chức này cũng không còn tồn tại nữa. Tr. 11.

2. Quốc hội Pháp tranh luận vấn đề Việt Nam: Ngày 13-3-1947, Quốc hội Pháp đã mở cuộc thảo luận về vấn đề Việt Nam. Cuộc tranh luận đã diễn ra gay gắt giữa các đại biểu của phái thực dân với những đại biểu dân chủ tiến bộ, đứng đầu là Đảng Cộng sản Pháp. Phái phản động chủ trương đánh Việt Nam và đánh đến một chừng mực nhất định nào đó mới đàm phán, nhưng không đàm phán với Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Còn Đảng Cộng sản và những người dân chủ tiến bộ thì đề nghị phải dàn xếp ngay và dàn xếp với Chính phủ Hồ Chí Minh và Việt Minh.

Sau nhiều cuộc tranh luận gay gắt, ngày 19-3-1947, Quốc hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành chính sách phản động của Chính phủ Pháp. Đảng Cộng sản Pháp đã không bỏ phiếu để phản đối chính sách phản động này. Tr. 69.

3. Hội nghị dân quân, tự vệ, du kích toàn quốc: Họp ngày 24-5-1947 tại Việt Bắc. Hội nghị đã kiểm điểm hoạt động của dân quân, tự vệ và du kích; bàn việc thống nhất tổ chức dân quân, tự vệ và du kích trong cả nước; công bố 10 lời thề danh dự và 12 điều kỷ luật dân vận của dân quân, tự vệ và du kích. Tr. 85.

4. Đảng Dân chủ Việt Nam: Tổ chức chính trị của giới trí thức, công chức và tư sản dân tộc Việt Nam.

Với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng được thành lập ngày 30-6-1944.

Tháng 7-1944, Đảng Dân chủ Việt Nam tự nguyện gia nhập Mặt trận Việt Minh và cùng với các hội cứu quốc tiến hành quá trình chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám 1945.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng Dân chủ Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc tăng cường và củng cố khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng và củng cố chính quyền, góp phần thực hiện đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam.

Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ Việt Nam (từ ngày 18 đến ngày 20-10-1988) - Đại hội cuối cùng, Đảng đã kết thúc 44 năm hoạt động và hoàn thành vai trò lịch sử. Tr. 94.

5. Đảng Xã hội Việt Nam: Thành lập ngày 22-7-1946, nhằm tập hợp giới trí thức Việt Nam yêu nước, sát cánh cùng toàn dân bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đảng Xã hội Việt Nam đã tự nguyện gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam và có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước.

Ngày 15-10-1988, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội đã diễn ra lễ mít tinh trọng thể kết thúc 42 năm hoạt động của Đảng Xã hội Việt Nam.Tr. 98.

6. Ngày thương binh liệt sĩ 27-7: Tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm Ngày thương binh để nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị trù bị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở trung ương, khối và tỉnh đã họp ở Phú Minh (Đại Từ, Thái Nguyên) bàn bạc và nhất trí đề nghị lấy ngày 27-7-1947 làm "Ngày thương binh liệt sĩ" đầu tiên trong cả nước.

Từ đó, ngày 27-7 hằng năm trở thành "Ngày thương binh liệt sĩ". Tr. 101.

7. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Dương: Sau khi Inđônêxia (Nam Dương) giành được độc lập, ngày 18-8-1945, đế quốc Hà Lan núp sau lưng quân đội Anh tiến vào Inđônêxia tìm cách khôi phục lại chế độ thực dân của họ ở nước này. Ngày 2-7-1947, đế quốc Hà Lan huy động 20 vạn quân trang bị vũ khí hiện đại, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Inđônêxia. Cuộc kháng chiến của nhân dân Inđônêxia bắt đầu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi các chiến sĩ và nhân dân Inđônêxia, bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ của Chính phủ và nhân dân ta đối với cuộc chiến đấu của nhân dân Inđônêxia và "tin chắc rằng cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Nam Dương sẽ thắng lợi". Tr. 106.

8. Ngày Nam Bộ kháng chiến: Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp được quân đội Anh giúp sức đã nổ súng đánh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ tại Sài Gòn.

Ngay chiều hôm đó, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Nam Bộ và Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, nhân dân Sài Gòn đã tổng đình công, không hợp tác với giặc Pháp. Một vạn rưỡi tự vệ cùng nhân dân lập vật chướng ngại trên đường phố, đánh trả quyết liệt quân xâm lược, mở đầu cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ chống thực dân Pháp. Ngày 23-9 trở thành truyền thống lịch sử - Ngày Nam Bộ kháng chiến. Tr. 123.

9. Ngày toàn quốc kháng chiến: Trước những hoạt động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Người vạch trần dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, đồng thời nêu bật quyết tâm của nhân dân ta: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Người khẳng định: "Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta".

Ngay đêm 19-12-1946, cả dân tộc ta nhất tề đứng dậy tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, ngày 19-12 đi vào lịch sử: Ngày toàn quốc kháng chiến. Tr. 139.

10. Ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam (22-12): Năm 1944, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến chuyển thuận lợi, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc có khả năng bùng nổ và thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra "Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân".

Chỉ thị nêu rõ: "Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự", hoạt động theo nguyên tắc tập trung lực lượng, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương. Về chiến thuật, vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nghi binh, nhanh chóng, tích cực, bất ngờ. Chỉ thị nêu rõ tiền đồ của Đội rất vẻ vang. Trong tương lai nó sẽ phát triển ra cả nước.

Theo chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, được thành lập tại một khu rừng nằm giữa tổng Trần Hưng Đạo và tổng Hoàng Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, Cao Bằng, nay thuộc xã Cẩm Lý, huyện Hoà An...

Dưới lá cờ đỏ sao vàng, toàn đội đã đọc 10 lời thề danh dự. Ngay sau khi thành lập, đội quân cách mạng ấy đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 24 và 25-12-1944. Chiến thắng đầu tiên này đã cổ vũ phong trào đánh đuổi thực dân Pháp, mở đường cho những thắng lợi tiếp theo.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22-12 trở thành ngày truyền thống - Ngày thành lập Quân đội  nhân dân Việt Nam. Tr. 140.

11. Hội nghị chính trị viên toàn quốc lần thứ hai: Được tiến hành từ ngày 6 đến ngày 11-3-1948 theo Chỉ thị của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương. Tham gia Hội nghị gồm các chính trị viên quân khu và chính trị viên trung đoàn. Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo của Quân uỷ Trung ương về nhiệm vụ chiến lược, chiến thuật và công tác chính trị, nghe một số báo cáo về tình hình trong nước và tình hình thế giới.

Hội nghị đã xác định nhiệm vụ của công tác chính trị trong quân đội là phải bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chiến lược do Quân uỷ Trung ương đề ra, động viên toàn quân nêu cao tinh thần anh dũng, đoàn kết, thống nhất, đồng cam cộng khổ, chống quan liêu, chống quân phiệt.

Hội nghị ra Nghị quyết về hệ thống tổ chức công tác chính trị, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp uỷ Đảng trong quân đội, chế độ chính trị viên và việc tăng cường công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng chính trị viên và bồi dưỡng chính trị cho cán bộ quân sự. Tr. 169.

12. Hội nghị dân quân toàn quốc: Được tiến hành đầu tháng 4-1948, theo chủ trương của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương, để đánh giá những mặt mạnh và mặt yếu của phong trào du kích chiến tranh.

Hội nghị biểu dương những thành tích của dân quân, du kích toàn quốc trong các công tác đánh giặc, trừ gian, tiễu phỉ, phá tề, phá giao thông địch, tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc và học tập bổ túc văn hoá; biểu dương những đơn vị và đội viên du kích có nhiều thành tích xuất sắc.

Hội nghị cũng chỉ rõ những thiếu sót của dân quân du kích là chưa phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, chưa chủ động linh hoạt trong tác chiến mà còn nặng về hình thức trong tổ chức và huấn luyện. Tr. 178.

13. Pháp lập chính phủ bù nhìn: Do thất bại trong chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh", thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt", âm mưu đưa Bảo Đại lên làm Quốc trưởng bù nhìn. Do mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ, giữa bù nhìn Bảo Đại và bù nhìn Nguyễn Văn Xuân ở Nam Bộ, việc đưa Bảo Đại ra đứng đầu chính quyền bù nhìn chưa thành.

Ngày 5-6-1948, thực dân Pháp đã gấp rút dựng lên một "Chính phủ trung ương" do Nguyễn Văn Xuân cầm đầu.

Ngày 7-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: "Chính phủ và nhân dân Việt Nam không thừa nhận bất cứ thứ giấy tờ nào do bọn bù nhìn ký kết với bất kỳ nước nào và sẽ chiểu theo pháp luật để trừng trị bọn phản quốc". Tr. 208.

14. Lời kêu gọi thi đua ái quốc: Sau chiến thắng Việt Bắc (thu đông 1947), theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27-3-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc để động viên mọi lực lượng phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Chỉ thị vạch rõ: "Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc mau thành công".

Nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến toàn quốc, ngày 11-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi, chính thức phát động cuộc vận động thi đua ái quốc. Tr. 209.

15. Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ sáu: Được tiến hành từ ngày 14 đến ngày 18-1-1949. Dự Hội nghị có đại biểu cán bộ toàn quốc và cán bộ cao cấp của Đảng trong các ngành. Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng và các báo cáo về quân sự, chính quyền, mặt trận, công tác Đảng. Hội nghị cũng nêu phương hướng và một số việc cụ thể để chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II sẽ họp vào đầu năm 1951.

Nhận định tổng quát về cuộc kháng chiến của nhân dân ta, Hội nghị chỉ rõ: "Ta càng đánh càng mạnh", "Pháp càng đánh càng suy nhược". So sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi có lợi cho ta. Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là phải "nỗ lực chuẩn bị, sẵn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không được bỏ lỡ cơ hội chiến lược". Hội nghị khẳng định: "Bất kể Mỹ dùng cách can thiệp gì, chúng ta cũng không sợ... Mỹ cũng sẽ phải chia cái thất bại đau đớn nhục nhã với thực dân Pháp ở Việt Nam".

Hội nghị chủ trương "động viên mọi lực lượng tinh thần và vật chất của toàn dân vào công cuộc kháng chiến kiến quốc với khẩu hiệu: "Tất cả để đánh thắng"".

Về nhiệm vụ quân sự, Hội nghị quyết định: "Đánh mạnh hơn nữa vào hậu phương địch, đánh vào các vị trí chiến lược, cắt các đường giao thông quan trọng". "Trung tâm công tác lúc này là tiếp tục xây dựng bộ đội chủ lực", phát triển và củng cố dân quân du kích.

Về công tác kinh tế, tài chính, cần phải phát triển bộ phận kinh tế nhà nước, nhất là công nghiệp quốc phòng, đẩy mạnh sản xuất tự cấp, tự túc trong toàn quốc và từng địa phương, xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tiếp tục thi hành triệt để giảm tô, chuẩn bị cải cách ruộng đất.

Về công tác xây dựng Đảng, phải đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo cán bộ, nâng cao trình độ chính trị và lý luận cho cán bộ, đảng viên, củng cố chi bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới thăm và nói chuyện tại buổi lễ bế mạc của Hội nghị. Tr. 272.

16. Liên hợp quốc: Là một tổ chức quốc tế được thành lập tại Hội nghị họp ở Xan Phranxixcô (Mỹ), từ ngày 24-4 đến ngày 26-6-1945. Đại diện của 51 nước đã ký tham gia Hiến chương Liên hợp quốc. Hiến chương bắt đầu có hiệu lực từ ngày 24-10-1945. Vì vậy, ngày 24-10 hằng năm được gọi là Ngày Liên hợp quốc.

Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: Mục đích thành lập tổ chức quốc tế này là để ngăn ngừa và loại trừ những mối đe doạ đối với hoà bình, phát triển quan hệ thân thiện giữa các dân tộc và thực hiện sự hợp tác giữa các nước để giải quyết những vấn đề quốc tế; tôn trọng các quyền tự do căn bản của con người, không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, tín ngưỡng và tiếng nói. Tất cả các nước hội viên đều bình đẳng, không một nước nào có quyền can thiệp vào các công việc nội bộ của nước khác.

Những cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc là Đại hội đồng, Hội đồng bảo an, Uỷ ban kinh tế và xã hội, Toà án quốc tế và Ban thư ký,... Trụ sở Liên hợp quốc đặt tại Niu Oóc (Mỹ).

Năm 1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gia nhập Liên hợp quốc. Tr. 294.

17. Bản ký kết 8-3 giữa Pháp và Bảo Đại: Thực hiện âm mưu chia rẽ lực lượng kháng chiến của ta, nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập trên chiến trường Đông Dương, năm 1949, thực dân Pháp được sự giúp đỡ của Mỹ đã đưa Bảo Đại về Việt Nam làm Quốc trưởng bù nhìn. Ngày 8-3-1949, Bảo Đại đã ký với Tổng thống Pháp Ôriôn bản thoả hiệp.

Nội dung cơ bản của bản thoả hiệp là:

Về chính trị, Pháp công nhận "Việt Nam có toàn quyền cai trị lấy mình nhưng phải có cố vấn chính trị Pháp bên cạnh".

Về quân sự, Việt Nam có quân đội riêng, nhưng huấn luyện viên phải là người Pháp; quân đội Pháp được đóng trên đất Việt Nam và được hoàn toàn tự do hành động; lúc có chiến tranh, tất cả quân đội Việt Nam đặt dưới sự chỉ huy của người Pháp.

Về ngoại giao, đại sứ Pháp đại diện cho Việt Nam.

Về kinh tế, đồng tiền Việt Nam phải phụ thuộc vào đồng phrăng, nghĩa là quyền phát hành giấy bạc vẫn ở trong tay Ngân hàng Đông Dương.

Về văn hoá, các trường Việt Nam từ tiểu học đến đại học phải học bằng tiếng Pháp, không được dùng tiếng Việt.

Về vấn đề thống nhất đất nước, công nhận Nam Bộ có chế độ riêng, mọi thể chế do Pháp đặt ra sau cuộc khởi hấn ở Nam Bộ năm 1945 vẫn giữ nguyên. Tr. 297.

18. Cách mạng Tháng Mười: Cuộc cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I. Lênin, ngày 7-11-1917 (tức ngày 24 Tháng Mười, theo lịch Nga), giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã vùng dậy lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và bọn phản cách mạng, thành lập Chính phủ Xôviết do Lênin làm Chủ tịch. Giai cấp công nhân Nga đã đập tan bộ máy thống trị của các giai cấp bóc lột, lập nên Nhà nước kiểu mới - chính quyền Xôviết, một hình thức của chuyên chính vô sản. Từ đó nước Nga Xôviết vững bước tiến lên xây dựng thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh.

Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã mở đầu một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân bị áp bức, soi sáng con đường cho các dân tộc bị nô dịch đi tới cách mạng giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tr. 365.

19. Hội nghị cán bộ nông dân cứu quốc toàn quốc: Họp từ ngày 28-11 đến ngày 7-12-1949 tại Việt Bắc.

Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo về tình hình và nhiệm vụ của Hội nông dân cứu quốc trong giai đoạn mới, kiểm điểm công tác của Hội từ khi thành lập. Hội nghị đã đề ra chương trình hoạt động trong năm 1950, gồm sáu cuộc vận động lớn: tăng gia sản xuất tự túc; nuôi dưỡng bộ đội; xây dựng hợp tác xã; hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức; đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ.
Tr. 367.

20. Chiến dịch Biên giới: Tức Chiến dịch Cao - Bắc -Lạng (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn), hay còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong II, được tiến hành theo quyết định hồi tháng 6-1950 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, phá tan vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đối với ta.

Đầu tháng 9-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận.

Sáng ngày 16-9-1950, chiến dịch bắt đầu. Bộ đội ta đánh chiếm Đông Khê, một căn cứ quan trọng của địch trên tuyến phòng ngự đường số 4, nằm giữa Lạng Sơn và Cao Bằng. Bị mất Đông Khê, quân Pháp quyết định rút khỏi Cao Bằng theo kế hoạch: Một mặt dùng gần hết lực lượng dự bị còn lại ở Bắc Bộ để mở cuộc hành binh Phốccơ (Phoque) lên chiếm thị xã Thái Nguyên; mặt khác, dùng binh đoàn Lơpagiơ mở cuộc hành binh Têredơ (Thérèse) từ Lạng Sơn theo đường số 4 rút về.

Sáng ngày 7-10-1950, quân ta tiêu diệt toàn bộ binh đoàn Lơpagiơ tại Cốc Xá cách Đông Khê 7km. Chiều ngày 7-10-1950, quân ta lại tiêu diệt gọn binh đoàn Sáctông tại cao điểm 477 ở gần Cốc Xá về phía tây. Binh đoàn từ Thất Khê lên ứng cứu cũng bỏ chạy. Tại Thái Nguyên, quân địch bị quân ta chặn đánh dữ dội, đã phải tháo lui.

Trong 13 ngày (từ 10 đến 23-10-1950), địch liên tiếp bỏ các vị trí Thất Khê, Nà Lầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập, An Châu, rút về Tiên Yên ở khu vực duyên hải. Hệ thống phòng tuyến đường số 4 của địch bị phá vỡ.

Trong Chiến dịch Biên giới, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 8.000 tên địch (trong đó bắt sống 3.500 tên), tiêu diệt gọn một nửa lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Bắc Đông Dương, thu nhiều vũ khí, giải phóng năm thị xã, 13 thị trấn, nhiều vùng đất đai quan trọng, cả một dải biên giới bao gồm 35 vạn dân. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố. Cách mạng nước ta lần đầu tiên đã phá tan vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.

Chiến dịch Biên giới là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân và dân ta, một chiến dịch đánh vận động, đánh tiêu diệt xuất sắc, đạt hiệu suất chiến đấu cao, đánh dấu bước phát triển mới về quyền chủ động của quân đội ta trên chiến trường chính. Tr. 455.

21. Chiến dịch trung du: còn gọi là Chiến dịch Trần Hưng Đạo, diễn ra từ ngày 25-12-1950 đến ngày 17-1-1951, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích. Trong chiến dịch này, phía ta đã huy động năm trung đoàn bộ đội chủ lực phối hợp với các lực lượng địa phương đánh địch ở vùng Vĩnh Yên, Phúc Yên và Bắc Ninh. Chúng ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch và qua chiến dịch này, các lực lượng vũ trang của ta có thêm kinh nghiệm chiến đấu. Tr. 493.


 

BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƯỜI

B

BẢO ĐẠI (Nguyễn Vĩnh Thuỵ) (1913 - 1997), sinh tại Huế, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn; lên ngôi năm 1926, thoái vị ngày 30-8-1945. Từ tháng 9-1945, được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm cố vấn của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tháng 3-1946, được cử sang Trùng Khánh (Trung Quốc) thực hiện chính sách ngoại giao của Chính phủ ta với chính quyền Tưởng Giới Thạch. Nhân chuyến đi này, Bảo Đại ở lại Trung Quốc. Năm 1949, Bảo Đại được Pháp đưa về Việt Nam làm Quốc trưởng bù nhìn. Tháng 10-1955, bằng "trưng cầu dân ý", Mỹ đã phế truất Bảo Đại và đưa Ngô Đình Diệm lên thay. Sau đó, sang Pháp sống cuộc đời tha phương và mất tại Pari năm 1997.

BƠLUM, Lêông (1872 - 1950), đảng viên Đảng Xã hội phái hữu, nhiều năm làm chủ bút báo Le Populaire - Cơ quan Trung ương của Đảng Xã hội Pháp. Sau khi Mặt trận nhân dân giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử năm 1936, Bơlum đứng đầu Chính phủ Pháp và đã thi hành chính sách làm suy yếu Mặt trận nhân dân và phá hoại việc thực hiện cương lĩnh của Mặt trận.

BÔLAÉC, Êmin, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương từ tháng 3-1947 đến  tháng 10-1948. Bôlaéc đã gặp Bảo Đại ở Hạ Long (1947) để sắp đặt kế hoạch đưa Bảo Đại về Việt Nam làm Quốc trưởng chính phủ bù nhìn do thực dân Pháp lập ra sau đó.

BÙI BẰNG ĐOÀN (1889 - 1955), nhân sĩ, quê ở Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Tây), đỗ cử nhân năm 1906. Năm 1911 là tri huyện, rồi tuần phủ Ninh Bình. Năm 1933 làm Thượng thư Bộ Hình. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành viên trong Ban Cố vấn Chính phủ, là đại biểu Quốc hội khoá I, được cử vào Ban Thường trực Quốc hội, rồi Trưởng ban Thường trực Quốc hội cho đến khi mất.

BÙI KỶ (1887 - 1960), nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, quê ở làng Châu Cầu, huyện Thanh Liêm, Hà Nam, đỗ cử nhân năm 1909, phó bảng năm 1910, sau đó du học ở Pháp. Trở về nước, phục vụ trong ngành giáo dục, viết sách, làm báo. Sau Cách mạng Tháng Tám, làm Chủ tịch Hội Văn hoá kháng chiến Liên khu III. Hoà bình lập lại, làm Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Trung. Mất tại Hà Nội năm 1960. Với bút danh Ưu Thiên đã để lại nhiều tác phẩm khảo cứu văn học và dịch thuật có giá trị.

C

CHU ÂN LAI (1898 - 1976), quê ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Năm 1917, du học ở Nhật. Năm 1919 về nước, tham gia phong trào Ngũ Tứ. Năm 1920 sang Pháp học. Năm 1922, tham gia Đảng Cộng sản trẻ Trung Quốc ở nước ngoài, rồi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp qua sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc.

Từ năm 1924, sau khi về nước, đến năm 1949 thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng: Uỷ viên trưởng Khu uỷ Lưỡng Quảng Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Quân uỷ Đảng Cộng sản Trung Quốc, Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Trung ương Cục Xôviết, Tổng chính uỷ Hồng quân công nông Trung Quốc kiêm Tổng chính uỷ Đệ nhất phương diện quân, Phó Chủ tịch Quân uỷ kiêm Tổng tham mưu trưởng... Thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác, ông là đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Chính phủ Quốc dân Đảng.

Sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thành lập, ông liên tục được bầu làm Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc và giữ cương vị này tới khi qua đời.

Tại Đại hội của Đảng Cộng sản Trung Quốc các khoá V, VI, VII, VIII, IX, X, ông đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và là Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Chu Ân Lai là người bạn thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã cùng với Người xây đắp nên tình đồng chí, tình bạn vĩ đại và cảm động, tình hữu nghị giữa hai Đảng và nhân dân hai nước.

Ông mất ngày 8-1-1976 tại Bắc Kinh.

CHU ĐỨC (1886 - 1976), năm 1911, tham gia khởi nghĩa Vân Nam. Sau đó là Thiếu tướng Lữ trưởng của quân đội Vân Nam. Năm 1922, sang Đức học và tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1925, học Đại học Phương Đông (Liên Xô) tại lớp huấn luyện quân sự bí mật. Năm 1926, về nước. Năm 1927, tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Xương. Năm 1934, tham gia Vạn lý trường chinh. Thời kỳ chiến tranh chống Nhật, giữ chức Tổng chỉ huy và Tổng tư lệnh Bát lộ quân, Phó Chủ tịch Uỷ ban quân uỷ Trung ương kiêm Phó Tổng tư lệnh Chiến khu II. Tháng 9-1949, được bầu làm Phó Chủ tịch Chính phủ nhân dân Trung ương. Tháng 10-1949, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh Giải phóng quân nhân dân Trung Quốc. Năm 1954, là Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Năm 1955, được phong hàm Nguyên soái. Từ năm 1959, được bầu là Uỷ viên trưởng Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc các khoá II, III, IV. Được bầu là Uỷ viên Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá VI), được bầu vào Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ năm (khoá VI), vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ VII, VIII, IX, X.

CÙ HUY CẬN (1919 - 2005), nhà thơ, người quê ở xã An Phú, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

Ông sớm tham gia những hoạt động yêu nước. Tại Quốc dân đại hội Tân Trào (1945) được bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám, ông được Đảng và Nhà nước giao nhiều trọng trách như: Bộ trưởng Bộ Canh nông, Bộ trưởng phụ trách văn hoá nghệ thuật, Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông còn tham gia nhiều hoạt động văn hoá quốc tế.

Huy Cận làm thơ từ thời còn là học sinh. Trước Cách mạng Tháng Tám đã có nhiều tác phẩm, như Lửa thiêng (1940) - tập thơ đầu tay, cũng là một tập thơ xuất sắc trong phong trào thơ mới, Vũ trụ con (1940 - 1942), Kinh cầu tự (1942) - tập văn xuôi triết lý.

Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thơ Huy Cận tập trung cho đề tài đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu là các tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm 60 (1968),Chiến trường gần, chiến trường xa (1972), Hạt lại gieo (1984).

Hơn nửa thế kỷ lao động sáng tạo, với tư cách một nhà thơ tiêu biểu, Huy Cận đã có nhiều đóng góp cho nền thơ hiện đại Việt Nam.

D

DUY TÂN (1900 - 1945), tức Nguyễn Vĩnh San, vua thứ 11 nhà Nguyễn từ năm 1907 đến năm 1916. Duy Tân là người yêu nước và có tinh thần dân tộc. Năm 1916, cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trong tổ chức Việt Nam quang phục hội dựa vào số binh lính bị mộ sang Pháp tổ chức khởi nghĩa ở Huế và miền Nam Trung Kỳ. Công việc bị bại lộ, khởi nghĩa không thành, Duy Tân bị thực dân Pháp đày sang đảo Rêuyniông (châu Phi). Duy Tân là người ham học và có ý chí. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, gia nhập quân đội Đồng minh chống phát xít; năm 1945, mất vì tai nạn máy bay ở châu Phi.

Đ

ĐÁCGIĂNGLIƠ, Gioócgiơ Tiơri đờ (1889 - 1964), thời thanh niên làm lính thuỷ chiến đấu ở Marốc. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất tham gia đội tàu chống tàu ngầm. Năm 1920 đi tu, cho đến năm 1939, được gọi về làm thuyền trưởng hải quân. Năm 1940 bị bắt rồi vượt ngục trốn sang Anh, được Đờ Gôn bổ nhiệm làm uỷ viên Hội đồng kháng chiến Pháp, Đô đốc hải quân Pháp. Ông là Cao uỷ Pháp vùng Thái Bình Dương từ năm 1941 đến năm 1943, là Cao uỷ Pháp ở Đông Dương từ năm 1945 đến năm 1947.

Tác giả cuốn Hồi ký về Đông Dương (1945 - 1947), in năm 1985.

ĐẶNG THAI MAI (1902 - 1984), nhà nghiên cứu văn học, quê ở Thanh Chương, Nghệ An. Sau khi tốt nghiệp Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội, vào dạy học ở Trường Quốc học Huế. Bị bắt và bị kết án tù treo vì tham gia Đảng Tân Việt. Mãn hạn tù, ông ra Hà Nội tham gia lập Trường tư thục Thăng Long, vừa dạy học, vừa viết báo, là một trong những người sáng lập phong trào truyền bá chữ quốc ngữ. Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 -1939), ông tích cực hoạt động trên các báo chí công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ nhiều chức vụ chính quyền: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam. Là đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá V.

ĐẶNG VĂN NGỮ (1910 - 1967), sinh tại Huế, là bác sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu ký sinh trùng học.

Trước Cách mạng Tháng Tám, khi đang học ở Đại học Y khoa Hà Nội, ông được cử sang Nhật nghiên cứu ở Viện Vi trùng - Ký sinh trùng tại Tôkyô, và đã tìm ra được thứ nấm pênixilin.

Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1949, theo tiếng gọi của Tổ quốc và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông về nước tham gia kháng chiến.

Giữa núi rừng Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), trong điều kiện hết sức khó khăn, ông đã nghiên cứu và sản xuất thành công thuốc kháng sinh pênixilin chế từ giống nấm ông đem từ Nhật về, phục vụ kịp thời cho thương bệnh binh trên các chiến trường, nhất là trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Từ năm 1965, nhận rõ nhu cầu to lớn về vắcxin phòng chống bệnh sốt rét của chiến trường miền Nam, ông dẫn đầu một đội công tác đi phục vụ chiến trường. Dưới bom đạn đất lửa Vĩnh Linh, đội công tác của ông đã tìm ra loại vắcxin mới phục vụ cho các chiến trường Khu V, Tây Nguyên và các mặt trận khác.

Ngày 1-4-1967, ông bị bom Mỹ sát hại tại chiến trường Khu V.

Giáo sư, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng liệt sĩ.

ĐIMITƠRỐP, Ghêoócghi (1882 - 1949), nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và Nhà nước Bungari. Là đảng viên Đảng Xã hội Dân chủ Bungari năm 1902, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1909. Năm 1923, tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của công nhân và nông dân Bungari. Sau khi khởi nghĩa thất bại, phải rời Tổ quốc, tiếp tục hoạt động trong Quốc tế Cộng sản. Từ năm 1935 đến năm 1943, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Từ năm 1942, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc đoàn kết tất cả các lực lượng chống phát xít ở Bungari. Sau khi Bungari được giải phóng, được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản và là người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Bungari.

ĐỖ ĐÌNH THIỆN (1903 - 1972), điền chủ yêu nước, chủ đồn điền Chi Nê (Hoà Bình). Sinh ở xã Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội. Theo học ở Pháp từ 1927 - 1931, bị Pháp bắt và trục xuất về nước vì hoạt động cách mạng. Ông là thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian Người đi Pháp năm 1946.

ĐỜGÔN, Sáclơ (1890 - 1970), tư lệnh sư đoàn. Năm 1940, sau khi Pêtanh ký hoà ước với Đức, ông đứng đầu Chính phủ kháng chiến Pháp chống phát xít Đức đóng ở Angiêri rồi Chính phủ lâm thời Pháp ở Pari (1944 - 1946). Tự rút lui khỏi chính trường năm 1946. Sau sự kiện Angiêri, trở lại chính trường, làm Tổng thống Pháp (1959 - 1965).

G

GĂNGĐI, Môhanđát Karamsan (1869 - 1948), luật sư, triết gia, nhà văn, nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ.

Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Anh, giành độc lập dân tộc, Găngđi chủ trương không dùng bạo lực và không coi bạo lực là phương thức đấu tranh chính trị.

Những năm 1924 - 1934, 1940 - 1941, ông là Chủ tịch Đảng Quốc đại (Đảng Quốc dân đại hội) của Ấn Độ, có vai trò quan trọng trong việc biến Đảng này thành một tổ chức quần chúng chống đế quốc. Học thuyết "phi bạo lực bất hợp tác" của Găngđi trở thành tư tưởng chủ đạo của Đảng Quốc đại trong cuộc đấu tranh cho nền độc lập Ấn Độ. Tuy nhiên, năm 1946, ông cũng tuyên bố là không nhất thiết chỉ dùng phương pháp đấu tranh "phi bạo lực".

Găngđi có ảnh hưởng và uy tín lớn ở Ấn Độ, được nhân dân Ấn Độ suy tôn là Mahátma nghĩa là "Tâm hồn vĩ đại". Năm 1948, ông bị bọn phản động ám sát.

H

HÀM NGHI (1871 - 1944), tức Nguyễn Ưng Lịch, vua thứ 8 nhà Nguyễn, người đứng đầu phe chủ chiến chống thực dân Pháp trong triều đình Huế. Khi kinh đô Huế thất thủ (7-1885), Hàm Nghi cùng Tôn Thất Thuyết ra phía Bắc tổ chức kháng chiến. Bị thực dân Pháp lùng bắt, phải lánh ở vùng rừng núi tỉnh Quảng Bình, xuống Chiếu Cần vương kêu gọi văn thân, sĩ phu và nhân dân chống Pháp. Tháng 11-1888, bị thực dân Pháp bắt, sau đó đày sang Angiê (thủ phủ của Angiêri ở Bắc Phi).

HOÀNG ĐẠO THUÝ (1900 - 1994), nhà giáo dục, nhà văn hoá, nhà Hà Nội học, quê ở Thanh Trì, Hà Nội. Tốt nghiệp Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội năm 1920. Tổng uỷ viên Hướng đạo Đông Dương (1930 - 1945), đại biểu dự Đại hội quốc dân Tân Trào 8-1945, Giám đốc Trường võ bị Trần Quốc Tuấn khoá I (1946), khoá III (1947), Cục trưởng Cục Quân huấn (1-1948), Tổng thư ký Ban Thi đua Trung ương (8-1948), Cục trưởng Cục Thông tin liên lạc (6-1949), được phong quân hàm Đại tá năm 1958, là đại biểu Quốc hội khoá I, II.

HOÀNG HỮU NAM (tức Phan Bôi) (1911 - 1947), quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Ông học ở Hà Nội và tham gia cách mạng. Năm 1929, vào Sài Gòn rồi tham gia Đảng Cộng sản. Năm 1930 - 1936 bị Pháp bắt tù khổ sai ở Côn Đảo. Năm 1939, lại bị bắt đày ở Bắc Mê rồi đưa sang Mađagátxca. Năm 1943 về Việt Bắc. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông là Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Ông mất vì tai nạn ở Tuyên Quang.

HOÀNG MINH GIÁM (1904 - 1995), quê ở Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Tốt nghiệp Trường cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Dạy học ở Phnôm Pênh (Campuchia), Sài Gòn rồi trở ra Hà Nội vào những năm 30 thế kỷ XX, dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, là giáo viên, Phó Hiệu trưởng rồi Hiệu trưởng.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng: Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1947), Bộ trưởng Bộ Văn hoá (1955 - 1976), Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam.

Là nhân chứng trong nhiều cuộc gặp gỡ lịch sử giữa đại diện của Việt Nam và Pháp những năm 1945-1946.

HOÀNG QUỐC VIỆT (1905 - 1992), tên thật là Hạ Bá Cang, quê ở Đáp Cầu, Võ Giàng, Bắc Ninh. Tham gia cách mạng từ năm 1925 và gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1928. Năm 1930, là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Đông Dương do Hội nghị hợp nhất cử ra. Năm 1937, là Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ. Từ tháng 5-1941, là Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945, là Uỷ viên Thường vụ Trung ương. Từ năm 1951 đến năm 1957 là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và là Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Năm 1960, là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Năm 1976, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1977 được bầu lại là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Năm 1983, là Chủ tịch danh dự của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

HOÀNG SÂM (1915 - 1969), Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, tên thật là Trần Văn Kỳ, quê ở huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Tham gia cách mạng từ năm 1927, năm 1942 là Tỉnh uỷ viên tỉnh Bắc Cạn. Năm 1944 khi Đội tuyên truyền giải phóng quân thành lập, được cử làm trung đội trưởng và sau đó là đại đội trưởng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là Uỷ viên Quân uỷ hội và được giao phụ trách Quân khu II. Năm 1948 là Chỉ huy trưởng Quân khu III. Năm 1955 làm Phó Chủ tịch Uỷ ban quân chính Hải Phòng. Từ năm 1955 đến khi hy sinh, là tư lệnh nhiều quân khu. Trước khi hy sinh (1969), là Bí thư Quân uỷ và Tư lệnh Quân khu III.

HOÀNG VĂN THÁI (1915 - 1986), tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê ở Thái Bình. Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tham gia cách mạng từ hồi còn trẻ, vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1938. Năm 1941 có thời gian là chỉ huy trưởng Đội cứu quốc quân Bắc Sơn. Năm 1945 phụ trách Trường Quân chính kháng Nhật.

Sau Cách mạng Tháng Tám, đã lần lượt giữ các chức vụ: Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại đoàn trưởng Đại đoàn Độc lập, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Uỷ viên Thường vụ Đảng ủy quân sự Trung ương, Phó Bí thư quân uỷ Miền, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Miền, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Từ Đại hội III, IV, V liên tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khoá.

HỒ TÙNG MẬU (1896 - 1951), tên thật là Hồ Bá Cự, quê ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tham gia hoạt động cách mạng từ lúc còn trẻ và đã nhiều năm hoạt động ở Thái Lan và Trung Quốc. Năm 1923 cùng Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái lập ra nhóm Tâm Tâm xã.

Là một trong những người đầu tiên tham gia tổ chức tiền thân của Đảng và đã tham dự các lớp huấn luyện cán bộ cách mạng ở Quảng Châu, do Nguyễn Ái Quốc tổ chức.

Hồ Tùng Mậu còn là người tích cực liên hệ với Hội quốc tế Cứu tế đỏ và vận động luật sư  Lôdơbi đấu tranh về mặt pháp lý đòi chính quyền Anh ở Hồng Kông phải trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc khi Người bị chúng bắt giam trái phép tại Hồng Kông (1931). Bị trục xuất khỏi tô giới Anh, bị thực dân Pháp bắt tháng 6-1931, đưa về nước, kết án tử hình, sau giảm xuống chung thân. Sau Cách mạng Tháng Tám, đã được Đảng và Nhà nước giao giữ nhiều chức vụ quan trọng như Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến Liên khu IV (1946), Tổng thanh tra Chính phủ (1947). Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hồ Tùng Mậu đã hy sinh ngày 23-7-1951 trên đường đi công tác tại Thanh Hoá. Được Đảng và Nhà nước ta truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

HUỲNH THÚC KHÁNG (1876 - 1947), quê ở Thạnh Bình, tổng Tiên Phước Thượng (nay là xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam. Đỗ Giải nguyên năm 1900 và Hoàng giáp năm 1904. Ông cùng các ông Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp tham gia phong trào Duy Tân nên bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo 13 năm (1908 - 1921). Năm 1926, được bầu làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, nhưng do bất đồng ý kiến với Khâm sứ Pháp nên ông từ chức và sáng lập báo Tiếng dân ở Huế (1927 - 1943). Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông tham gia Chính phủ Liên hiệp kháng chiến với cương vị Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp (1946), ông được trao quyền Chủ tịch nước. Ông là một sáng lập viên và là Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Năm 1947, ông lâm bệnh mất tại Quảng Ngãi khi đang làm Đại diện Chính phủ ở miền Trung.

K

KHƠRÚTSỐP, Nikita Xécgâyêvích (1894 - 1971), sinh ở Calinốpca thuộc tỉnh Cuốcxơ, công nhân mỏ vùng Đônbát. Năm 1918, gia nhập Đảng Cộng sản và tham gia Hồng quân chiến đấu ở mặt trận phía Nam. Sau nội chiến, đi học văn hoá và làm công tác đảng ở vùng Đônbát và Kiép.

Từ năm 1931, là Bí thư Đảng khu Bauman, khu Crátxnaia Prétnia ở thành phố Mátxcơva.

Từ năm 1932 đến năm 1934, là Bí thư thứ hai rồi Bí thư thứ nhất Thành uỷ Mátxcơva. Năm 1934, được bầu là Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1938, là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ucraina, Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị. Năm 1939, là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai được phong Trung tướng, là Uỷ viên Hội đồng quân sự khu Kiép và mặt trận Tây Nam, mặt trận Xtalingrát, Tổng chỉ huy lực lượng du kích ở Ucraina.

Năm 1947, làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ucraina, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Ucraina, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1949, được bầu lại làm Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Thành uỷ Mátxcơva. Sau Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô, là Uỷ viên Chủ tịch Đoàn và Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.

Tháng 9-1953, được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.

Từ tháng 2-1958 đến cuối năm 1964 là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Uỷ viên Chủ tịch Đoàn Xôviết tối cao Liên Xô.

Trong chuyến sang thăm Liên Xô lần đầu tiên (đầu năm 1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những cuộc tiếp xúc với Khơrútsốp.

L

LÊ BÌNH (1924 - 1945), liệt sĩ cách mạng. Người huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Đầu năm 1945, gia nhập Mặt trận Việt Minh và sau đó được đưa vào Sài Gòn hoạt động. Cách mạng Tháng Tám thành công, Lê Bình được giao phụ trách lực lượng an ninh quận Tân Bình rồi tỉnh Cần Thơ. Ông đã hy sinh khi chỉ huy Đội tự vệ Cảm tử trong trận đánh nổi tiếng hạ đồn Cái Răng (Châu Thành, Cần Thơ) ngày 12-11-1945. Trường Huấn luyện dân quân Trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được mang tên Lê Bình.

LÊ ĐÌNH THÁM (1897 - 1969), quê Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sau khi học hết bậc thành chung ở Huế, ông ra Hà Nội học và tốt nghiệp Trường Y, rồi lại về làm việc tại bệnh viện thành phố Huế. Là một trong những người thành lập Hội Phật giáo ở Huế.

Năm 1948, ông được cử giữ chức Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ. Năm 1949, được điều động lên Việt Bắc, lần lượt giữ các chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam.

LÊ ĐỨC THỌ (1911 - 1990), tên thật là Phan Đình Khải, quê ở xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (nay là xã Nam Vân, thành phố Nam Định), nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.

Ông hoạt động cách mạng từ rất sớm. Năm 1926, khi còn đi học ở thành phố Nam Định, ông đã tham gia bãi khoá và dự lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Năm 1929, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, hai lần bị bắt và bị cầm tù ở Nam Định, Hà Nội, Côn Đảo, Sơn La, Hoà Bình. Sau khi ra tù, là Uỷ viên Trung ương Đảng trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ (10-1944), Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng (8-1945).

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông thay mặt Trung ương Đảng tham gia Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào Nam Bộ công tác (1948), làm Phó Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ (1949).

Hiệp nghị Giơnevơ 1954 được ký kết, ông làm Trưởng ban Thống nhất Trung ương (1955); được bầu vào Ban Bí thư và Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng (1960); Uỷ viên Quân uỷ Trung ương (1967); Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1968). Tháng 5 - 1968, ông được giao nhiệm vụ phụ trách công tác đấu tranh ngoại giao, là cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Pari về Việt Nam, trực tiếp đàm phán với đại diện Chính phủ Hoa Kỳ để giải quyết việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Là một trong những người trực tiếp chỉ đạo, có những đóng góp to lớn vào Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975).

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), ông được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong hơn 60 năm hoạt động cách mạng, Lê Đức Thọ đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Quốc hội và Chính phủ nước ta cũng như chính phủ một số nước đã tặng ông nhiều huân chương cao quý.

LÊ HỮU TỪ, Giám mục địa phận Phát Diệm (Ninh Bình). Sau Cách mạng Tháng Tám, được cử vào Ban Cố vấn Chính phủ. Tháng 9-1948, trước âm mưu quân Pháp nhảy dù xuống Bùi Chu - Phát Diệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc đã gửi điện thăm hỏi và thư cho Giám mục nhân Phái đoàn Chính phủ về công tác tại vùng này với mong muốn Giám mục với tư cách Cố vấn Chính phủ, góp phần hạn chế âm mưu của giặc Pháp. Tuy nhiên, tháng 9-1949, Pháp vẫn nhảy dù xuống Phát Diệm và đổ bộ lên Bùi Chu, chiếm đóng trung tâm công giáo lớn ở Bắc Bộ. Năm 1954, Giám mục Lê Hữu Từ di tản vào Nam cùng nhiều giáo dân.

LÊNIN, Vlađimia Ilích (1870 - 1924), lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới, người sáng lập Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử loài người, sáng lập Quốc tế Cộng sản. Là học trò trung thành và xuất sắc nhất của C. Mác và Ph. Ăngghen, Lênin đã đấu tranh kiên quyết để bảo vệ tinh thần cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại mọi sự xuyên tạc của bọn cơ hội chủ nghĩa, phát triển thiên tài cả ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác (triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít, chủ nghĩa xã hội khoa học), giải quyết đúng đắn về lý luận và thực tiễn các vấn đề đặt ra cho cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.

LÊ THƯỚC (1890 - 1975), quê ở huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), Hà Tĩnh. Thuở nhỏ theo Hán học, từng đỗ Giải nguyên. Sau theo Tây học, tốt nghiệp thành chung tại Quốc học Huế, rồi Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Sau đó đi dạy học. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được giao giữ nhiều chức vụ như: Chủ tịch Uỷ ban tản cư, di cư tỉnh Thanh Hoá; Chủ tịch Uỷ ban tăng gia sản xuất tỉnh Thanh Hoá; Uỷ viên Mặt trận Liên Việt toàn quốc... Hoà bình lập lại (1954), ông làm việc ở Bộ Giáo dục, rồi Bộ Văn hoá, là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu văn học, sử học.

LÊ VĂN HIẾN (1904 - 1997), quê ở xã Phước Ninh, thành phố Đà Nẵng, xuất thân trong một gia đình lao động.

Học xong trung học, năm 1922 trúng tuyển vào làm nhân viên bưu điện Đà Nẵng. Năm 1927, ông cùng một số đồng chí thành lập Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đầu tiên ở Hà Nội. Năm 1929 bị bắt, sau được tha, phải đổi vào làm việc ở Nha Trang (Khánh Hoà). Tại đây, ông vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1930, lại bị bắt, chịu án 5 năm tù khổ sai, giam ở ngục Kon Tum.

Năm 1935, mãn hạn tù ông về Đà Nẵng, được phân công làm công tác tài chính của Đảng. Tháng 5-1940 bị bắt lần nữa. Tháng 5-1945, tham gia chuẩn bị khởi nghĩa ở Đà Nẵng.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông được giao nhiều trọng trách: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đà Nẵng rồi Bộ trưởng Bộ Lao động (1945), Bộ trưởng Bộ Tài chính (1946 - 1959), Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao (1948), Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (1958).

Từ năm 1962, ông được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Vương quốc Lào trong suốt 15 năm liên tục.

LƠCLÉC, Philíp Mariơ đờ (1902 - 1947), Đại tướng Pháp, tham gia phong trào kháng chiến Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1944, cùng với quân Đồng minh, Lơcléc đổ bộ lên Noócmăngđi và chỉ huy Sư đoàn cơ giới 2 giải phóng Pari. Năm 1945, là Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương (8-1945 - 6-1946), nhân danh nước Pháp ký văn bản đầu hàng của Nhật. Năm 1946, chỉ huy quân Pháp ra Bắc Bộ thay thế quân Tưởng Giới Thạch (sau Hiệp ước 6-3-1946) và mất năm 1947 vì tai nạn máy bay. Năm 1952, được truy phong Thống chế.

LƯU THIẾU KỲ (1898-1969), nhà hoạt động chính trị Trung Quốc. Là một trong những đảng viên cộng sản Trung Quốc đầu tiên học tại Mátxcơva (1921-1922). Từ năm 1932, là Chủ tịch Liên đoàn Lao động toàn Trung Quốc và Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1936, là Bí thư Đảng bộ Hoa Bắc; Chính uỷ Tân tứ quân năm 1941 - 1942. Năm 1949, được bầu làm Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc; năm 1959, được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Bị xử trí sai trong Cách mạng văn hoá. Hội nghị lần thứ 11 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1980, quyết định khôi phục tên tuổi Lưu Thiếu Kỳ.

M

MÁC, Các (1818 - 1883), lãnh tụ vĩ đại và người thầy của giai cấp công nhân quốc tế, người sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học.

C. Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà còn là nhà cách mạng vĩ đại. Năm 1847, ông gia nhập Liên minh những người cộng sản. Năm 1864, là người sáng lập và là linh hồn của Quốc tế thứ I. Năm 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăngghen hoàn thành tác phẩmTuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Cương lĩnh có tầm quan trọng đặc biệt đầu tiên của giai cấp vô sản. Sau đó, C. Mác hoàn thành bộTư bản (Tập I, xuất bản năm 1867; tập II, III xuất bản sau khi C. Mác qua đời với sự cộng tác của Ph. Ăngghen vào các năm 1885 và 1894). Cùng với hàng loạt tác phẩm khác của mình, bộ Tư bản của C. Mác đã chứa đựng những nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học, trong đó có học thuyết về giá trị thặng dư, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử... Từ sự phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, C. Mác đã chỉ rõ sự phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại là đi tới chủ nghĩa cộng sản.

MAO TRẠCH ĐÔNG (1893 - 1976), nhà hoạt động chính trị nổi tiếng Trung Quốc, quê ở huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam.

Năm 1921, tham gia Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó phụ trách Bí thư Khu uỷ Hồ Nam. Năm 1923, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, làm Bí thư Trung ương Cục phụ trách công tác tổ chức. Năm 1930, làm Tổng Chính uỷ Hồng quân Trung Quốc. Tháng 11-1931, là Chủ tịch Chính phủ Dân chủ Công nông Trung Hoa. Sau đó, tham gia lãnh đạo cuộc Vạn lý trường chinh (10-1934). Tại hội nghị Tuân Nghĩa, được bầu vào Thường vụ Bộ Chính trị (1-1935), là Chủ tịch Uỷ ban Quân sự Trung ương (12-1936), Chủ tịch Bộ Chính trị và Chủ tịch Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2-1943). Năm 1949 - 1950, là Chủ tịch Chính phủ nhân dân Trung ương, Chủ tịch Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc. Năm 1954 được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều lần gặp gỡ, thăm viếng, hội đàm với Chủ tịch Mao Trạch Đông.

MUTÊ, Mariuýt (1902 - 1969), đảng viên Đảng Xã hội Pháp. Năm 1946 là Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại (Bộ Thuộc địa Pháp). Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp (từ tháng 6 đến tháng 9 - 1946), Mutê đã có nhiều cuộc tiếp xúc, là người ký Tạm ước 14-9-1946 với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

MUÝT, Pôn (1902 - 1967), học ở Hà Nội, thành viên Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1926 đến đầu những năm 40. Về Pháp, tham gia phong trào kháng chiến Pháp chống phát xít Đức. Năm 1945, là phái viên của Đờ Gôn đến Việt Nam. Từ năm 1945 đến năm 1947 là Cố vấn chính trị của Tướng P.Lơcléc và nhận nhiệm vụ bên cạnh Đô đốc Đácgiăngliơ và Cao uỷ Pháp Bôlaéc ở Đông Dương. P. Muýt là đặc phái viên của Cao uỷ Pháp Bôlaéc trong cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thái Nguyên tháng 5-1947.

N

NÊRU, Giaoaharơlan (1889 - 1964), nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ. Gia nhập Đảng Quốc đại (1912), là Tổng thư ký (1929) rồi trở thành Chủ tịch Đảng. Năm 1946, ông tham gia thành lập Chính phủ lâm thời Ấn Độ, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Từ năm 1947, Ấn Độ tuyên bố độc lập, ông giữ chức Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Ông là người có nhiều đóng góp vào sự nghiệp hoà bình thế giới, là một trong những người đề xướng Năm nguyên tắc chung sống hoà bình, và là một trong những người sáng lập Phong trào không liên kết, là người bạn thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về phong trào dân tộc.

NGUYỄN BÌNH (1906 - 1951), tên thật là Nguyễn Phương Thảo, quê ở Hưng Yên, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Năm 1926, vì tham gia truy điệu Phan Chu Trinh nên bị đuổi học, sau đó sang Trung Quốc.

Từ năm 1929 đến năm 1930, tham gia Việt Nam Quốc dân đảng. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, bị bắt giam ở Hoả Lò, rồi bị đày ra Côn Đảo. Ở Côn Đảo, do tiếp xúc với các đảng viên cộng sản nên đã rời bỏ Quốc dân đảng. Năm 1936, được trả lại tự do, tiếp tục bí mật hoạt động chống Pháp, tham gia lập chiến khu Đông Triều do ông làm Tư lệnh.

Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi, Nguyễn Bình được Tổng bộ Việt Minh và Chính phủ Việt Nam cử vào Nam Bộ công tác, giữ chức Uỷ viên Ban Quân sự Nam Bộ và Tư lệnh.

Năm 1951, trên đường ra Việt Bắc, Nguyễn Bình bị phục kích và đã hy sinh.

NGUYỄN CHÍ THANH (1914 - 1967), quê ở Niêm Phổ, Quảng Điền, Thừa Thiên (nay thuộc Thừa Thiên -Huế), gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1937), Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên (1938), hai lần bị bắt, lần thứ hai (1931) bị đày lên Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Năm 1941, vượt ngục về Thừa Thiên xây dựng cơ sở. Tháng 8-1945, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được chỉ định làm Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ, là Bí thư Phân khu uỷ Bình Trị Thiên (1947), Bí thư Liên khu uỷ Liên khu IV (1948), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Bí thư Tổng Quân uỷ (1950). Ông là Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá II, III, được phong hàm Đại tướng năm 1959, là Uỷ viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1961, phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng; sau đó được điều trở lại quân đội, là Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1964).

NGUYỄN DUY TRINH (1910 - 1985), quê ở xã Phúc Thọ, Nghi Lộc, Nghệ An. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1927. Năm 1928, gia nhập Đảng Tân Việt cách mạng. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Đầu năm 1932, bị địch bắt kết án tù khổ sai và đày đi Côn Đảo (1935 - 1945).

Sau Cách mạng Tháng Tám, lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước: Uỷ viên Trung ương Đảng (1951), Bí thư Trung ương Đảng (1955), Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng (1956), Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1965 - 1980). Là đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá VII.

NGUYỄN KHANG (1919 - 1976), quê ở thôn Nguyên Kinh, xã Minh Hưng, Kiến Xương, Thái Bình. Tham gia cách mạng từ rất sớm. Năm 1939, là Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Hà Nội. Năm 1941 bị bắt, kết án khổ sai và đày đi Sơn La. Năm 1944, vượt ngục trở về tham gia Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ.

Tháng 8-1945, được phân công thay mặt Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo khởi nghĩa ở một số tỉnh và trực tiếp tổ chức chỉ đạo cuộc biểu tình giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8. Trong kháng chiến chống Pháp, ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí thư Liên khu Việt Bắc, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu I.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), ông được bầu làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội lần thứ III (1960), trúng cử Uỷ viên chính thức.

Từ năm 1957 đến năm 1960, là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại các nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và Cộng hoà nhân dân Mông Cổ.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, về giữ chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng cho tới năm 1976.

NGUYỄN LƯƠNG BẰNG (1904 - 1979), tức Sao Đỏ, quê ở xã Thanh Tùng, Thanh Miện, Hải Dương. Khi lớn lên, làm công nhân tàu biển. Năm 1925, gặp Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung Quốc) và bắt đầu hoạt động cách mạng, được tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cử về nước hoạt động. Năm 1928, từ Hải Phòng, được tổ chức phái đi công tác tại Hồng Kông, Quảng Châu, Thượng Hải. Ông gia nhập nhóm cộng sản đầu tiên của người Việt Nam ở Trung Quốc.

Năm 1931, bị mật thám Pháp bắt đưa về nước và bị kết án 20 năm tù khổ sai. Năm 1932, vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1933, lại bị thực dân Pháp bắt, bị kết án tù chung thân và đày đi Sơn La. Năm 1943, lại vượt ngục và trở về hoạt động cách mạng. Năm 1944, được Đảng chỉ định làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác tài chính và binh vận. Năm 1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, được bầu làm Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại Đại hội quốc dân Tân Trào, được bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám, liên tục là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ Đại hội III đến Đại hội IV, là Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Ông đã lần lượt giữ các chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Liên Xô, Tổng thanh tra của Chính phủ. Tại Quốc hội khoá III, kỳ họp thứ năm, ông được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau khi nước nhà thống nhất, Quốc hội khoá VI đã bầu ông làm Phó Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

NGUYỄN SINH KHIÊM (Nguyễn Tất Đạt) (1888 -1950), quê ở Nam Đàn, Nghệ An, anh ruột Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông tham gia hoạt động chống Pháp trong tổ chức của Đội Quyên, Đội Phấn và bị Pháp bắt giam năm 1914, lĩnh án tù khổ sai 3 năm, sau tăng lên 9 năm. Năm 1920, thực dân Pháp chuyển ông về giam lỏng ở Huế. Ở đây, ông vẫn tiếp tục hoạt động yêu nước. Năm 1940, ông về quê, chính quyền thực dân lại bắt giam ông đến năm 1941 mới được tha. Cuối năm 1946, ông từ Nghệ An ra Hà Nội thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh.

NGUYỄN SƠN (1908 - 1956), tên thật là Vũ Nguyên Bác. Các tên khác là Lý Đức Lan, Hồng Thuỷ, Lam Giang... Quê ở làng Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội.

Thuở nhỏ học ở Hà Nội. Năm 1926, sang Trung Quốc tham gia lớp huấn luyện ở Quảng Châu do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Sau đó được cử vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Khởi nghĩa Quảng Châu thất bại, ông tham gia chiến đấu tại Khu căn cứ Đông Giang của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tham gia cuộc Vạn lý trường chinh, trải qua nhiều công tác huấn luyện chính trị, quân sự, tuyên truyền, báo chí, văn nghệ trong Bát Lộ quân, Quân giải phóng Trung Quốc, là Uỷ viên Chính phủ công nông Xôviết Trung Quốc.

Năm 1945 về Việt Nam, được giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Quốc phòng (1-1947), rồi Tư lệnh kiêm Chính uỷ Chiến khu 5, Chiến khu 4. Tháng 1-1948, được phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1951 trở lại Trung Quốc công tác ở Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Năm 1955 được Chính phủ Trung Quốc phong quân hàm Thiếu tướng. Năm 1956 mất tại Hà Nội.

NGUYỄN VĂN TỐ (1889 - 1947), quê ở Hà Đông (Hà Tây). Thuở nhỏ theo Hán học, sau chuyển sang Tây học, đỗ bằng Thành chung, làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội.

Trước năm 1945, làm Hội trưởng Hội truyền bá quốc ngữ. Tháng 8-1945, ông được mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ lâm thời, là đại biểu Quốc hội khoá I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, ông được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban tản cư di cư, rồi cùng Chính phủ rút lên Việt Bắc tiếp tục tham gia kháng chiến. Mùa đông năm 1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, ông bị bắt và bị giặc sát hại.

NGUYỄN XIỂN (1907 - 1997), giáo sư, kỹ sư khí tượng, nhà hoạt động chính trị, quê ở Nam Đàn, Nghệ An.

Năm 1928, sau khi đỗ đầu tú tài toán học ở Hà Nội, ông được cấp học bổng sang Pháp du học, tốt nghiệp về nước dạy học, sau đó được tuyển vào ngạch kỹ sư khí tượng Đông Dương (1937).

Cách mạng Tháng Tám thành công, ông là Chủ tịch Uỷ ban hành chính Bắc Bộ kiêm Giám đốc Nha Khí tượng Thuỷ văn đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, được cử tham gia xây dựng và trực tiếp giảng dạy ở Trường đại học khoa học cơ bản và Sư phạm cao cấp. Hoà bình lập lại, ông là Giám đốc Nha Khí tượng, rồi Bộ trưởng Bộ Cứu tế, Chủ tịch Uỷ ban Vật lý Địa cầu Việt Nam, Chủ tịch Hội phổ biến Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, Chủ nhiệm báo Khoa học thường thức.

Ông là đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá VIII, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội từ khoá II đến khoá VI và Phó Chủ tịch Quốc hội khoá VII. Ông còn là Phó Tổng thư ký (1946) và Tổng thư ký (1956-1988) Đảng Xã hội Việt Nam, Uỷ viên Ban Liên Việt toàn quốc (1947), Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ông đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý của Việt Nam và nước ngoài. Năm 1996, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh.

O

ÔRIÔN, Vanhxăng (1884 - 1966), đảng viên Đảng Xã hội Pháp, nhà hoạt động chính trị, Bộ trưởng trong Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp (1936 - 1938). Năm 1943, tham gia phong trào "Nước Pháp chiến đấu" ở Luân Đôn (Anh). Từ tháng 1-1947 đến tháng 1-1954, là Tổng thống nước Pháp. Tháng 1-1947, ra sắc luật loại trừ các bộ trưởng cộng sản khỏi Chính phủ, ủng hộ nước Pháp gia nhập khối NATO. Tháng 12-1958, ra khỏi Đảng Xã hội Pháp.

P

PHAN ANH (1912 - 1990), quê ở xã Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông là Chủ tịch Tổng hội sinh viên, tốt nghiệp Khoa Luật, Đại học Đông Dương, luật sư và giáo sư Trường tư thục Thăng Long (Hà Nội), thành viên tích cực của cuộc vận động truyền bá quốc ngữ và phong trào thanh niên.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, là Chủ tịch Uỷ ban kiến thiết quốc gia, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ kháng chiến, Tổng thư ký Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi dự Hội nghị Phôngtennơblô (Pháp). Trong kháng chiến chống Pháp, từng là Bộ trưởng Kinh tế, Bộ trưởng Công thương, Bộ trưởng Thương nghiệp, Bộ trưởng Ngoại thương. Ông được cử làm Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa I và khoá II, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khoá IV. Là đại biểu Quốc hội từ khoá II đến khoá VIII. Luật sư Phan Anh còn là một trong những người sáng lập Hội Luật gia Việt Nam, Uỷ viên Ban Thường vụ Hội Luật gia quốc tế, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Hoà bình thế giới.

PHAN KẾ TOẠI (1889 - 1973), quê ở Ba Vì, Hà Tây. Học xong trường Hậu bổ năm 1914, đi làm quan ở nhiều nơi. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, triều đình Huế cử làm Khâm sai Bắc Kỳ. Tháng 8-1945, trước khí thế cách mạng sục sôi, ông từ chức Khâm sai và theo cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, được cử làm Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Sau khi miền Bắc giải phóng, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ rồi Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

PHẠM HÙNG (1912 - 1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, quê ở Long Hồ, Châu Thành, Trà Vinh.

Năm 1928 - 1929 là thành viên của tổ chức "Nam Kỳ học sinh Liên hiệp Hội" và "Thanh niên Cộng sản Đoàn". Năm 1930, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Nam 1931, bị bắt, chịu án tử hình, sau giảm xuống tù chung thân đày ra Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám, tham gia Xứ uỷ Nam Bộ, rồi Bí thư Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ.

Năm 1951 là Uỷ viên Trung ương Đảng, tham gia Trung ương Cục miền Nam. Năm 1952 là Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Phân Liên khu miền Đông Nam Bộ.

Năm 1954, là Trưởng phái đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Uỷ ban Liên hiệp đình chiến Quốc tế tại Sài Gòn. Từ năm 1956 là Uỷ viên Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ: Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ tướng (1958), Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1980), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1987).

PHẠM NGỌC THẠCH (1909 - 1968), quê ở Quảng Nam, con nhà giáo yêu nước Phạm Ngọc Thọ.

Trước Cách mạng Tháng Tám, vừa làm nghề bác sĩ, vừa tham gia hoạt động cách mạng, một trong những sáng lập viên của tổ chức Thanh niên tiền phong Nam Bộ.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ lâm thời, Thứ trưởng Phủ Chủ tịch (1949), Uỷ viên thường vụ, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn (1950 -1953), Bộ trưởng Bộ Y tế kiêm Viện trưởng Viện chống lao Trung ương (1958), Chủ tịch Uỷ ban điều tra tội ác của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Ông còn là người có nhiều hoạt động trong lĩnh vực y học quốc tế.

Ông được Chính phủ phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, là đại biểu Quốc hội khoá II và III.

Ngày 7-11-1968, ông đã hy sinh ở chiến trường miền Nam trong khi làm nhiệm vụ.

PHẠM VĂN BẠCH (1910 - 1987), quê ở tỉnh Trà Vinh. Đỗ cử nhân luật tại Trường đại học Liông (Pháp). Năm 1936, về nước dạy học ở Cần Thơ và tham gia phong trào yêu nước ở đây.

Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

PHẠM VĂN ĐỒNG (1906 - 2000), quê ở xã Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi. Tham gia phong trào học sinh sinh viên để tang chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh và bị đuổi học. Năm 1926, dự lớp huấn luyện chính trị do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu. Năm 1927, về hoạt động ở Nam Kỳ và được cử vào Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, bị bắt và bị kết án 10 năm tù, đày đi Côn Đảo. Năm 1936, được trả lại tự do, ra hoạt động công khai tại Hà Nội. Năm 1940 - 1941, hoạt động tại miền Nam Trung Quốc, sau đó trở về nước tham gia tổ chức xây dựng căn cứ địa cách mạng Cao - Bắc - Lạng.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, được cử vào Chính phủ lâm thời làm Bộ trưởng Bộ Tài chính, được bầu vào Quốc hội liên tục từ khóa I đến khoá VII.

Từ năm 1947, được cử giữ nhiều trọng trách: Đại diện Chính phủ tại Nam Trung Bộ, Phó Thủ tướng Chính phủ (1949), rồi Thủ tướng Chính phủ (1955), sau đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến năm 1987. Ông là Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham gia các Hội nghị Phôngtennơblô (1946), Hội nghị Giơnevơ (1954), Hội nghị Băng Đung (1955) và nhiều Hội nghị quốc tế khác.

Ông là Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng (1947), Uỷ viên chính thức (1949). Từ năm 1951 đến năm 1986, ông liên tục được bầu là Uỷ viên Trung ương Đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Từ năm 1987 là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

PHIGHE, Lêô, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Thư ký Đoàn Thanh niên Cộng hoà Pháp, Phó Chủ tịch Đoàn Thanh niên dân chủ quốc tế, nghị sĩ Quốc hội Pháp. Năm 1950, L.Phighe sang Việt Nam, thăm vùng giải phóng, trại tù binh Pháp và được tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 8-1950, bị bắt vì những hoạt động tuyên truyền chống "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" của Pháp ở Đông Dương. Sau đó, được trả tự do. Miền Bắc được giải phóng, ông đã sang thăm lại Việt Nam.

R

RAMAĐIÊ, Pôn (1888 - 1961), nhà hoạt động của Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Chính phủ Pháp năm 1947, nhiều lần làm Bộ trưởng trong các Chính phủ Pháp. Tháng 5 - 1947, P. Ramađiê đã đưa các bộ trưởng cộng sản ra khỏi Chính phủ của mình.

T

TẠ QUANG BỬU (1910 - 1986), quê ở Nam Đàn, Nghệ An, thuở nhỏ học ở Quảng Nam, Huế, được cấp học bổng du học ở Pháp.

Sau khi tốt nghiệp Trường Điện cao cấp Pari (Pháp), Trường Đại học Oxford (Anh), năm 1940 trở về dạy học ở Huế. Là Uỷ viên trưởng Hướng đạo sinh Trung Kỳ, đóng góp nhiều công sức vào việc giáo dục lực lượng thanh niên yêu nước. Tháng 4-1945, tham gia thành lập Trường Quân sự Thanh niên tiền tuyến ở Huế - chuẩn bị cán bộ quân sự cho cách mạng.

Sau cách mạng, ông được giao nhiều chức vụ quan trọng: Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, thành viên của Phái đoàn Việt Nam tại các Hội nghị Phôngtennơblô (1946) và Hội nghị Giơnevơ (1954), Hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp... Ông là đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khoá VI, Phó Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô.

Giáo sư Tạ Quang Bửu còn là tác giả của nhiều công trình khoa học tự nhiên.

THÀNH THÁI (1879 - 1954), tức Nguyễn Bửu Lân, vua thứ 10 nhà Nguyễn năm 1889 - 1907. Thành Thái là người yêu nước và có tinh thần dân tộc. Năm 1907, Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Rêuyniông (châu Phi). Năm 1947, được đưa về miền Nam nhưng phải sống tại Sài Gòn; mất ngày 24-3-1954.

TÔN ĐỨC THẮNG (1888 - 1980), quê ở xã Mỹ Hoà Hưng, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang). Năm 1910, ông làm thợ trong xưởng Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn. Năm 1912, ông tổ chức cuộc bãi công của công nhân nhà máy, bị lùng bắt, phải trốn sang Pháp, làm thợ máy trong Hải quân Pháp. Năm 1919, ông tham gia cuộc binh biến của công nhân và thuỷ thủ Pháp tại Biển Đen nhằm chống lại cuộc chiến tranh can thiệp phản cách mạng của bọn đế quốc vào nước Cộng hoà Xôviết Nga. Năm 1920, ông trở về nước, xây dựng công hội bí mật tại Sài Gòn - Chợ Lớn và lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son tháng 12-1925 thắng lợi. Năm 1926, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1927, được cử vào Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ của tổ chức cách mạng này. Cuối năm 1929, bị thực dân Pháp bắt trong vụ án Đường Bácbiê, kết án 20 năm tù khổ sai, đày ra Côn Đảo.

Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, được chính quyền cách mạng đón về, ông tham gia ngay vào cuộc chiến đấu của đồng bào Nam Bộ chống thực dân Pháp. Từ năm 1955, ông là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Từ năm 1960, ông là Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tạ thế, ông được cử làm Chủ tịch nước và giữ chức vụ đó cho tới khi qua đời. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương cao quý khác.

TRẦN CANH (1903 - 1961), quê ở huyện Tương Hương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Năm 1922 tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố. Sau khởi nghĩa Nam Xương (1927) đã lần lượt giữ các chức vụ: Sư đoàn trưởng, Hiệu trưởng Trường Hồng quân, Tư lệnh Binh đoàn,...

Sau năm 1949, được cử giữ chức Cố vấn quân sự bên cạnh Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Tư lệnh chí nguyện quân Trung Quốc chống Mỹ giúp Triều Tiên. Năm 1955, được phong quân hàm Đại tướng. Năm 1959, làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

TRẦN ĐẠI NGHĨA (1913 - 1997), tên thật là Phạm Quang Lễ, quê ở Chấn Hiệp, Tam Bình, Vĩnh Long, một trong số những trí thức yêu nước ở Pháp theo Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông là kỹ sư quân giới đầu tiên của Việt Nam, Cục trưởng Cục Quân giới (1947), Cục trưởng Cục Pháo binh (1949). Năm 1948 được phong quân hàm Thiếu tướng.

Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã nghiên cứu, thiết kế và tổ chức sản xuất thành công nhiều loại vũ khí như mìn, đạn, lựu đạn, bom phóng, súng bazôka, súng SKZ, có công lớn trong việc xây dựng ngành quân giới Việt Nam. Năm 1952, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.

Hoà bình lập lại (1954), ông là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường đại học Bách khoa Hà Nội (1956), Chủ nhiệm Uỷ ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước (1964), Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (1965 - 1972), Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Liên Xô (1966), Viện trưởng Viện khoa học Việt Nam (1975 - 1983), Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1973 - 1974) và Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng (1974 - 1977), Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (1983 - 1988).

Ông còn là đại biểu Quốc hội các khoá II và III. Được Quốc hội và Chính phủ tặng nhiều huân chương cao quý. Năm 1996, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh.

TRẦN ĐĂNG NINH (1909 - 1955), quê ở Quảng Nguyên, Ứng Hoà, Hà Đông (nay là Hà Tây). Là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1936. Năm 1940 tham gia lãnh đạo phong trào đấu tranh vũ trang ở Bắc Sơn. Năm 1941, là Uỷ viên Trung ương Đảng. Năm 1945, là Uỷ viên Uỷ ban khởi nghĩa. Năm 1947, phụ trách công tác kiểm tra Đảng và sau đó làm Phó Tổng thanh tra Chính phủ. Từ năm 1950, là Tổng cục trưởng Tổng cục Cung cấp Bộ Quốc phòng. Năm 1951, được bầu lại làm Uỷ viên Trung ương Đảng.

TRẦN HUY LIỆU (1901 - 1969), nhà báo, nhà sử học và nhà hoạt động chính trị. Quê ở Vân Cát, Vụ Bản, Nam Định. Tham gia hoạt động yêu nước từ rất sớm, là một trong những yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng ở Nam Kỳ, sau gia nhập Đảng Cộng sản. Tháng 8-1945, dự Đại hội quốc dân Tân Trào và được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng. Sau Cách mạng Tháng Tám, lần lượt giữ nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước: Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, Chủ tịch Hội Văn hoá cứu quốc, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Viện trưởng Viện Sử học, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học xã hội...

TRẦN HỮU TƯỚC (1913 - 1983), sinh tại Hà Nội. Du học ở Pháp, năm 1937 tốt nghiệp Trường đại học Y khoa Pari, tham gia phong trào Việt kiều yêu nước. Năm 1946, khi phái đoàn Chính phủ ta sang Pháp đàm phán ở Hội nghị Phôngtennơblô, theo tiếng gọi của Tổ quốc và lời khuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông về nước tham gia kháng chiến.

Tại chiến khu Việt Bắc, ông tham gia đào tạo các thế hệ bác sĩ đầu tiên, nhận trọng trách xây dựng bệnh viện Tai - Mũi - Họng.

Từ năm 1954, được cử làm Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, kiêm Chủ nhiệm bộ môn Tai - Mũi - Họng của Trường đại học Y khoa Hà Nội. Từ năm 1969 đến khi mất, là Viện trưởng Viện Tai - Mũi - Họng. Là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học.

Ông còn là đại biểu Quốc hội các khoá III và IV, Chủ tịch Hội Tai - Mũi - Họng Việt Nam, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.

Năm 1966, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động.

TRƯỜNG CHINH (1907 - 1988), tên thật là Đặng Xuân Khu, nhà hoạt động cách mạng, nhà thơ (bút danh Sóng Hồng), nhà báo, quê ở Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1925, gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1927. Từ năm 1936 đến năm 1939, là Uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ, đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương trong Uỷ ban Mặt trận dân chủ Bắc Kỳ. Năm 1940, là quyền Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941, là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương và năm 1951 được bầu lại là Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1958, là Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ tịch Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Tại Đại hội III (1960), Đại hội IV (1976), Đại hội V (1982) được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, là Uỷ viên Bộ Chính trị. Từ năm 1960 đến năm 1981, là Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Năm 1981 được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ tháng 7-1986 đến trước Đại hội VI của Đảng, lần thứ ba ông được bầu vào cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

TÚ MỠ (1900 - 1976), tên thật là Hồ Trọng Hiếu, sinh tại Hà Nội trong một gia đình làm nghề thủ công. Lúc nhỏ học chữ Hán, sau học quốc ngữ. Đậu bằng thành chung; làm thư ký cho Sở Tài chính Pháp ở Hà Nội.

Từ năm 1926, ông xuất hiện trên văn đàn như một cây bút trào phúng. Năm 1932, tham gia nhóm Tự lực Văn đoàn, cộng tác với báoPhong hoá, Ngày nay, nổi danh với tập thơ châm biếm Dòng nước ngược.

Từ năm 1947, ông chuyển hẳn sang công tác tuyên truyền đánh địch bằng thơ ca.

Hoà bình lập lại ở miền Bắc, ông tập trung vào đề tài chống Mỹ - nguỵ, đấu tranh thống nhất nước nhà. Năm 1957, ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

V

VALUY, Gioócgiơ (1899 - 1970), Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương (6-1946 - 2-1948), Chỉ huy quân đội Khối Bắc Đại Tây Dương ở Trung Âu (1956 - 1960).

VÕ LIÊM SƠN (1888 - 1949), nhân sĩ yêu nước, quê ở Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Cử nhân Hán học. Năm 1912, ông làm Tri huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) một thời gian rồi từ quan về dạy học. Năm 1927, tham gia Đảng Tân Việt. Trong cao trào 1930 - 1931, ông và người con cả bị bắt giam. Sau khi ra tù, ông vào Phan Rang hoạt động. Tháng 3-1945, từ chối tham gia Chính phủ Trần Trọng Kim.

Sau Cách mạng Tháng Tám, làm Chủ tịch Hội Mùa đông binh sĩ, Uỷ viên Ban vận động Mùa đông binh sĩ. Năm 1948, là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Liên khu IV. Trong thời gian dự Hội nghị Văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc, ông được gặp và xướng hoạ thơ với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

VÕ NGUYÊN GIÁP, sinh ngày 25-8-1911 tại làng An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình. Sớm tham gia phong trào yêu nước và gia nhập Tân Việt cách mạng Đảng. Thời kỳ 1936 - 1939, hoạt động công khai tại Hà Nội. Năm 1940, sang Trung Quốc, được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sau đó cùng Người trở về tham gia xây dựng căn cứ địa ở Cao - Bắc - Lạng. Võ Nguyên Giáp là người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tháng 12-1944, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng năm 1945 ở Tân Trào, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được cử giữ nhiều trọng trách trong bộ máy nhà nước: Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Quân sự uỷ viên hội, Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ ta tại Hội nghị trù bị Đà Lạt. Năm 1948, được phong quân hàm Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông được giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy quân đội qua nhiều chiến dịch từ Việt Bắc Thu Đông 1947 đến Biên giới 1950, Điện Biên Phủ 1954, và cuối cùng là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử 1975.

Từ Đại hội II (1951) đến Đại hội IV (1976), ông liên tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị. Đại hội V (1982) được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ông là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khoá VII. Từ năm 1955, được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, sau này là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng liên tục cho đến năm 1991. Hiện là Chủ tịch danh dự Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

VŨ ĐÌNH TỤNG (1895 - 1973), quê ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Là một nhà trí thức Công giáo yêu nước, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (1945), ông đã tích cực tham gia nhiều công tác cách mạng và được cử làm Giám đốc Nha Y tế Bắc Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp và sau ngày miền Bắc giải phóng, là Bộ trưởng Bộ Thương binh, Cựu binh. Năm 1958, là Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Ông còn là Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Uỷ viên Uỷ ban liên lạc toàn quốc những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hoà bình.

X

XANHTƠNY, Giăng (1907 - 1978), chính khách Pháp, nhân viên Nhà băng Đông Dương từ năm 1929 - 1931. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phục vụ trong phong trào kháng chiến Pháp. Từ cuối 1945 - 1947, là đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội, nhiều lần tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuối năm 1954, Xanhtơny là Tổng đại diện Cộng hoà Pháp tại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1969, thay mặt Chính phủ Pháp dự Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội.

XTALIN, Iôxíp Víchxariônôvích (1879 - 1953), một trong những nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên Xô (cũ). Năm 1898, gia nhập Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga rồi trở thành đảng viên bônsêvích sau Đại hội lần thứ II của Đảng. Thời kỳ chuẩn bị tiến hành cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Xtalin là Uỷ viên trong Trung tâm quân sự cách mạng. Thời kỳ nước ngoài vũ trang can thiệp và nội chiến, Xtalin là Uỷ viên Hội đồng Quân sự cách mạng. Năm 1922, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Nga. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1941 - 1945) là Chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng và là Uỷ viên nhân dân Bộ Quốc phòng Liên Xô, Tổng Tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Liên Xô. Ông còn là tác giả của nhiều tác phẩm lý luận.

XUPHANUVÔNG (1909 - 1995), nhà hoạt động của Đảng và Nhà nước Lào, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Chủ tịch Hội đồng tối cao, Chủ tịch nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Chủ tịch Mặt trận xây dựng đất nước Lào.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Xuphanuvông đã giữ nhiều trọng trách: Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào, Chủ tịch Mặt trận Lào yêu nước (Neo Lào Hắcxạt). Là đại biểu các lực lượng cách mạng Lào tham gia các Chính phủ liên hiệp Lào lần thứ nhất (1957 - 1958), lần thứ hai (1962 - 1964) và lần thứ ba (1974 - 1975). Là người có nhiều cống hiến to lớn trong việc xây dựng và củng cố tinh thần đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị Lào - Việt.